Một nét tổng quát về lịch sử
Dù đoàn đại biểu Pol Pot đi bằng máy bay Jet và xe hơi Hồng Kỳ hơn là đi xe ngựa, tới lăng Mao thay vì lâu đài Hoàng Đế để tỏ lòng thành kính, cuộc viếng thăm của phái đoàn Kampuchia tại Bắc Kinh, theo nhiều phương cách, đó là sự lặp lại của lịch sử. Một quan chức cao cấp bộ ngoại giao Trung Hoa bay tới Phnom Pênh để tháp tùng đoàn quan khách đến thủ đô. Ngày xưa, quan chức triều đình Trung Hoa phải tới biên giới để tháp tùng sứ bộ các chư hầu tới triều cống rất linh đình. Tuy nhiên, quan trọng hơn hình thức đó là quan điểm về chiến lược và chính trị xác định mối liên hệ của Trung Hoa với các nước láng giềng Đông Nam Á.
Từ thế kỷ thứ ba sau Tây lịch cho đến cuối thế kỷ 15, vua các vương quốc khác (Phù Nam, Chân Lạp, Chiêm Thành và Kampuchia - vùng sau này trở thành Nam Việt Nam) đều chấp nhận quyền lực tối thượng của Trung Hoa, ít ra trên mặt biểu tượng, thỉnh thoảng phải triều cống cho thiên tử. Các đoàn đi sứ này thực ra chỉ là hình thức giả dạng của một công việc mà lý do chính thức khác là tìm sự che chở của Trung Hoa. Vua các nước vùng Đông Nam Á hy vọng một lời cảnh cáo từ vị hoàng đế đầy quyền lực Trung Hoa đủ ngăn cản cuộc xâm lăng của nước láng giềng.
Phương cách triều cống như trên chỉ hữu hiệu khi đế quốc Trung Hoa vững mạnh, đủ sức bảo trợ lời đe dọa của họ bằng sức mạnh quân sự hoặc khi Trung Hoa không gặp khó khăn nội bộ. Năm 1407, vua Thành Tổ (Yongle) nhà Minh gởi một đạo quân mạnh 200 ngàn người trừng phạt Việt Nam về nhiều tội, luôn cả tội tấn công Chiêm Thành. Việt Nam thua trận phải trả lại phần đất mà họ đã lấy của Chiêm. Tuy nhiên, năm 1414, vua Kampuchia, kém may mắn hơn khi ông ta gởi sứ bộ tới Bắc Kinh khẩn cầu Trung Hoa giúp đỡ chống lại Chiêm Thành xâm lược. Minh Thành Tổ đang bận chống quân Mông Cổ ở phương Bắc, có lời đoan chắc rằng Chiêm, một chư hầu khác, sẽ tuân lệnh hoàng đế. Hoàng đế cũng gởi một sứ bộ tới Chiêm, “thúc đẩy vua nước này rút quân khỏi Kampuchia để Kampuchia được hòa bình”. Lời hoàng đế chẳng kèm theo sự đe dọa trừng phạt nào, giống như rơi vào tai người điếc. Các toán vũ trang của Chàm tiếp tục cướp phá Kampuchia. Thực ra, thời kỳ tiếp sau đó, khi vương quốc Kampuchia suy yếu, trở thành miếng mồi ngon cho các nước láng giềng tham lam - Việt Nam và Thái Lan - thì Trung Hoa chẳng quan tâm đến số phận của nó nữa. Quan điểm truyền thống xem Trung Hoa như là tên lính kiểm ở địa phương làm cho người Khmer nghĩ đến vấn đề có tính chiến lược. Người cai trị đầu tiên của Kampuchia hiện đại, thái tử Norodom Sihanouk tìm ở Trung Hoa Cọng Sản tình hữu nghị với hy vọng Trung Hoa ngăn cản các nước thù địch tiềm tàng xâm lược xứ sở ông ta. Năm 1966, ông còn đi xa hơn, nói rõ ra rằng Trung Hoa là “đồng nghĩa với sự sống còn của nước Kampuchia độc lập, hòa bình và toàn vẹn lãnh thổ.” Rõ ràng là với Việt Nam và Thái Lan trong trí, ông ta cảnh cáo “Nếu chúng ta tách rời Trung Hoa, chúng ta sẽ bị những con kên kên nuốt sống, những con kên kên này muôn đời nuốt sống đất đai Kampuchia.”
Nước Kampuchia trong thời cận đại, thấy Trung Hoa là kẻ bảo vệ khoan hòa và là một nước cần có quan hệ trong khi Việt Nam là một phần tử quan hệ rất khác biệt. Trong khi bảo vệ các chư hầu, triều đình Trung Hoa không ngừng cố gắng khuất phục Việt Nam. Và Việt Nam, trong khi chống lại áp lực Trung Hoa, mai mỉa thay, lại tìm cách trở thành một đệ tử ngoan của Trung Hoa bằng cách tự biến thành một Trung Hoa nhỏ. Từ khi giành được độc lập, Cọng Sản Việt Nam tiếp tục theo đuổi công việc của triều đại nhà Nguyễn cũ bằng quan hệ triều cống với Lào và Kampuchia, thành một hệ thống liên minh để bảo đảm an ninh và ưu thế kinh tế. Như trong thời trước, cố gắng của Việt Nam giữ quyền tối thượng ở vùng biên giới phía Nam Trung Hoa giờ đây không ngừng khiêu khích chống lại những nhà Cọng Sản cai trị.