← Quay lại trang sách

Châm cứu ở “ngón chân”

Nguồn gốc dân tộc Việt Nam vẫn còn là một đề tài thảo luận của các sử gia. Theo một giả thuyết thì người Việt đầu tiên xuất hiện ở tỉnh Quảng Đông bên Trung Hoa và lưu vực sông Hồng Hà. Vương quốc Việt Nam đầu tiên còn ghi lại trong sử Trung Hoa là Nam Việt (Tiếng Trung Hoa là Nan Yueh) do một người chỉ huy quân sự nội phản dựng nên năm 208 trước Tây lịch. Đó là Triệu Đà. Ông ta có vợ Việt Nam, theo phong tục Việt Nam và giết tất cả những ai còn trung thanh với hoàng đế Trung Hoa. Sau một thế kỷ tự trị, khi nhà Hán nổi lên, Nam Việt lại bị sát nhập vào Trung Hoa và trở thành vùng Panyu (thuộc tỉnh Quảng Đông) và Giao Chỉ (lưu vực sông Hồng Hà). Trong suốt thời gian một ngàn năm Bắc thuộc người Việt Nam bị Trung Hoa đồng hóa về mặt xã hội và tổ chức chính trị. Họ bắt chước kỷ thuật canh tác nông nghiệp của Trung Hoa tiến bộ hơn và phát triển ngôn tự theo Trung Hoa. Thời kỳ này người ta cũng thấy sự xuất hiện văn hóa Hán-Việt lấy từ trong văn hóa Trung Hoa và triết học Khổng giáo. Điểm sâu sắc là sự tôn kính của người Việt đối với văn hóa Trung Hoa, như trả lời một câu hỏi của người Trung Hoa về phong tục trong chữ An Nam (có nghĩa là phương Nam thanh bình) một danh xưng người Trung Hoa ban cho người Việt năm 697 sau Tây Lịch. Ở thế kỷ 15, một nhà cai trị Việt Nam viết:

An Nam tự hào về lề thói, phong tục

Vua quan ta theo luật nhà Hán

Áo mão theo cách nhà Đường

Ngay cả khi ngọn gió dân chủ Tây phương bùng lên mạnh mẽ hồi đầu thế kỷ này, kẻ sĩ Việt nam vẫn còn tự hào về tài khéo léo của họ trong nghệ thuật viết chữ Tàu và kiến thức của họ về Trung Hoa cổ. Nhiều người trong số các nhà lãnh đạo Cọng Sản Việt Nam, kể từ Hồ Chí Minh đều có học văn hóa Trung Hoa.

Tuy nhiên, một cách nghịch lý, sự đồng hóa văn minh Trung Hoa cũng đã đem lại cho người Việt Nam phương cách tổ chức chính trị và kinh tế để có thể đương đầu với thiên triều. Như một nhà sử học lưu ý, “Trung Hoa đã vô tình dựng nên một quốc gia mới thành công trong việc mô phỏng theo thể chế Trung Hoa và xây dựng nên một nền độc lập cho chính họ”. Tinh thần quốc gia nổi lên sau chín trăm năm dưới ách cai trị của Trung Hoa lại được mài dũa qua hàng ngàn năm kháng chiến chống lại Trung Hoa.

Lợi dụng thời kỳ xáo trộn bên Trung Hoa, Ngô Quyền lật đổ chế độ cai trị của Trung Hoa ở Việt Nam vào năm 939 sau Tây Lịch và dựng nên triều đại tự chủ. Sự thất bại cũng không nhẹ nhàng gì cho các hoàng đế nhà Tống hay Nguyên Mông, nhà Minh và nhà Thanh kế nghiệp sau đó. Bốn mươi năm sau khi Việt Nam tách rời khỏi đế quốc, khi trật tự đã được phục hồi ở phía nam Trung Hoa, hoàng đế nhà Tống gởi quân đội tới để thu hồi xứ Giao Chỉ nổi loạn. Một bức thư của hoàng đế Đại Tống gởi cho vua Việt Nam trước khi đưa quân sang đánh chứng tỏ thái độ của Trung Hoa đối với Việt Nam.

Bức thư viết rằng: “Quan hệ của Trung Quốc với các bộ tộc man rợ phía Nam, giống người ta có hai chân và hai tay giăng ra theo ý muốn của trái tim, như thế, trái tim là chủ. Nếu có mạch máu ở tay chân nào không hoạt động và tinh thần bất an thì phải dùng thuốc mà trị, nếu không thấy kết quả thì phải dùng kim mà châm cho đến khi sức khỏe phục hồi. Sau khi dùng thuốc và làm cho đau đớn chân tay - có nghĩa là các bộ tộc nhỏ ở phương nam - bây giờ hoàng đế chú tâm vào Việt Nam giống như một ngón chân. “Có phải là không khôn ngoan khi làm ngơ trước một ngón chân đau. Nếu như thế thì kết quả độc nhất để cho các người thoát khỏi vòng ngu dốt tối tăm, nó sẽ làm ô nhiễm sự trong sáng của chúng ta”.

Bức thư đòi Việt Nam phải tùng phục triều đình nhà Tống để cho thân thể Trung Hoa đươc mạnh khỏe. Nhưng nếu như chúng nó từ chối. “Ta ban lệnh cắt xẻ thân thể các ngươi ra, chặt xương các ngươi ra, để cho cỏ hoang mọc trên đất đai của các ngươi... Dù biển các ngươi có châu ngọc, chúng ta đem quẳng xuống sông, dù núi non các ngươi có vàng bạc, ta đổ nó vào tro bụi, ta chẳng thèm những thứ có giá trị của các ngươi. Các ngươi bay nhảy như man rợ, ta có xe ngựa kéo, các ngươi uống qua mũi, ta có lúa gạo và rượu. Hãy để ta thay đổi phong tục các ngươi. Các ngươi cắt tóc, ta đội mũ. Trong khi các ngươi nói năng như chim, ta đã có sách vở và thi cử. Hãy để cho ta dạy cho các người kiến thức và luật pháp. Các ngươi có muốn thoát khỏi vòng man rợ như người ở các hải đảo xa mà nhìn vào ngôi nhà văn hiến. Các ngươi có muốn bỏ áo quần các ngươi làm bằng cỏ lá và mặc áo thêu núi thêu rồng? Các ngươi biết chưa? Đừng có bỏ mà đi và làm điều sai trái đáng tội chết. Ta chuẩn bị xe ngựa và binh lính...”

Vua Việt Nam Lê Hoàn chẳng hề nao núng trước những lời đe dọa đó và năm 981, quân Tống thất bại nặng nề, chết hại vô số kể. Một ngàn năm kế tiếp, Việt Nam đánh bại mấy lần các cuộc xâm lược từ phương Bắc.

Các nhà bác học phân tích quan hệ truyền thống Trung Hoa với các nước láng giềng thường đồng ý với nhau rằng Trung Hoa cảm thấy từ trong cội rể, họ có quyền tối thượng trong việc triều cống, nằm trong bình diện văn hóa hơn là chính trị. Việc triều cống là để ban cấp cho một vị vua chứ không phải cho một nước. Mỗi vị vua chư hầu cần phải biết tới quyền tối thượng của hoàng đế và phải cầu xin “Trung Quốc” thuận phong cho làm vua nước đó. Trên lý thuyết, hoàng đế không lưu tâm tới bộ tộc man khai có chấp thuận quyền tối thượng đó hay không. Điều đó, cuối cùng, đặt căn bản trên mặt đạo đức. Tuy nhiên, trong thực tế, Trung Hoa tìm cách chiếm đóng và trực tiếp kiểm soát khu vực ngoại vi của Trung Hoa. Trong trường hợp Việt Nam, vì địa thế hiểm trở và vì Việt Nam kiên quyết kháng cự, việc triều cống chỉ có khi họ suy yếu mà thôi. Tuy nhiên, việc triều cống này đặt căn bản trên những nguyên tắc của Khổng Tử nhằm mở đường cho Trung Hoa can thiệp khi nào Việt Nam suy yếu.

Mặc dù các vị vua Việt Nam tiếp tục chấp nhận quyền bá chủ của Trung Hoa, các hoàng đế Trung Hoa kế nghiệp (khi nào họ thấy có sức mạnh quân sự) can thiệp vào Việt Nam để bảo tồn sự vững vàng và sắp đặt mọi việc đúng với trật tự Khổng giáo. Chẳng hạn như trước khi tấn công xâm lược Việt Nam, vua Thành Tổ nhà Minh đã liệt ra 20 tội của vua Việt Nam. Trong số này có 8 tội thuộc về luân lý và vi phạm ý thức hệ, chẳng hạn như tiếm quyền và giết hại tiên đế đã được Trung Hoa thuận phong, tàn hại dân lành và lừa gạt hoàng đế nhà Minh. Năm tội tiếp sau có liên hệ đến sự an toàn của Trung Hoa, trong đó bao gồm cả việc quấy phá các bộ tộc thiểu số ở biên giới và khuyến dụ họ chống lại hoàng đế Trung Hoa. Năm tội khác là xâm lược Chiêm Thành. Hai tội cuối cùng là biểu lộ sự bất kính với hoàng đế. Những tội đó, như nhà sử học Wang Gungwu ghi nhận: “chứng tỏ một lãnh vực, qua đó, Trung Hoa muốn chứng minh quyền bá chủ, không thuận tình với tinh thần tự do và độc lập của các nước chư hầu”, đặc biệt Việt Nam, trong một thời gian lâu dài là một phần của đế quốc Trung Hoa. Việt Nam không hẵn là một nước chư hầu. Nó là một tỉnh cũ của Trung Hoa đã chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa. Điều chính yếu khi vua Thành Tổ đưa ra để trừng phạt Việt Nam năm 1407 vì Việt Nam là một mi-mi (liên hệ hết sức gần gủi). Nền văn hiến Việt Nam có được là từ Trung Hoa, tạo thành mối hữu nghị, những “tội trạng” là của các nhà vua, đặc biệt là việc xâm phạm của họ.