Muốn có hai hay ba Việt Nam
Mặc dù Trung Hoa có thể đóng một vai trò nào đó trong công cuộc thống nhất Việt Nam, Bắc Kinh quyết định xây dựng quan hệ với Mặt trận Giải phóng Miền Nam VN. Trung Hoa sắp đặt việc viện trợ vũ khí, lương thực, tài chánh cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam VN qua ngã Kampuchia (MTGPMNVN), không những căn cứ trên lý do an toàn mà còn nhắm mục đích duy trì một đường giây quan hệ trực tiếp với cách mạng Miền Nam. Sau cách mạng Văn hóa Trung Hoa năm 1966-67, Hà Nội kiểm soát chặt chẽ việc phân phối văn hóa phẩm Trung Hoa ở Miền Bắc VN. Tuy nhiên, qua đường giây bí mật, Bắc Kinh vẫn duy trì viện trợ cho bộ phận Cọng Sản ở Miền Nam.
Thực ra, theo sự phân tích của Mỹ, khi chiến tranh tiến hành theo phương cách làm cho Hà Nội toại ý và Hoa Kỳ bắt đầu rút quân tác chiến theo học thuyết Nixon, Trung Hoa cố gắng gia tăng liên hệ trực tiếp, không những với Lào, Kampuchia mà cả Miền Nam VN.
Trương Như Tảng, nguyên bộ trưởng Tư pháp chính phủ Lâm thời Cọng hòa Miền Nam VN (CPLTCHMNVN), đào thoát khỏi VN năm 1979, nói với tôi rằng Trung Hoa đã duy trì quan hệ “hết sức thân hữu” với CPLTCHMNVN. Theo ông ta thì “Ngay từ lúc đầu Trung Hoa cho rằng Miền Bắc đã áp đặt quan điểm của họ xuống Miền Nam. Vì vậy nên họ ủng hộ CPLTCHMNVN. Chính Trung Hoa đòi hỏi quyền tự trị cho Miền Nam tại hội nghị Paris.”
Đưa ra một ví dụ cho thấy việc Trung Hoa tôn trọng chính quyền Miền Nam, Tảng nói rằng trong suốt thời gian thăm viếng Bắc Kinh tháng 2/ 1975, không riêng gì đại biểu CPLTCHMNVN do ông ta dẫn đàu, sinh hoạt riêng trong một nhà quốc khách tách biệt hẵn với phái đoàn chính phủ Việt Nam Dân chủ Cọng Hòa (Miền Bắc) mà Trung Hoa còn tiếp đãi riêng, trang trọng với CPLTCHMNVN nữa. Việc Tảng phân tích thái độ của Trung Hoa (Bấy giờ ông ta rất thỏa mãn) đã đem lại vài điều đáng tin cho bản báo cáo do Francois Missoffe viết. Ông này là một phái viên đặc biệt của bộ Ngoại giao Pháp. Sau chuyến đi Bắc Kinh hồi đầu năm 1976, qua đó ông ta tham dự những buổi họp cấp cao, Missoffe nói rằng: “Dù có hai hay ba Việt Nam cũng chẳng thấy vấn đề gì. Trung Hoa cho rằng không thể chỉ có một Việt Nam.”
Bốn năm sau, Việt Nam tố cáo Bắc Kinh thúc đẩy Hà Nội đừng mở cuộc tấn công cuối cùng vào Saigon. Lời tố cáo ấy, cũng giống như bao nhiêu lời tố cáo khác sau khi quan hệ giữa hai nước đổ vỡ, được xem như những lời tuyên truyền. Tuy nhiên, Philippe Richer, người giữ vai trò đại sứ Pháp ở Hà Nội trong khoảng thời gian 1973-75, sau này, ngày 20/4/ 1975, chín ngày trước khi Saigon sụp đổ, ông ta xác nhận quả thật Bắc Kinh đã cảnh cáo Hà Nội sự nguy hiễm nếu “đưa cán chổi đi quá xa”, họ dùng câu tỷ dụ mà Mao đã dùng hồi năm 1972.
Dù sao, không có gì nghi ngờ việc Trung Hoa kiên trì chống Việt Nam trở thành một tiểu bá ở Đông Dương. Quan tâm lâu dài của Trung Hoa là sự cân bằng quyền lực giữa các nước nhỏ ở ngoại vi của họ. Lo lắng của họ, từ 1954, là đẩy những thế lực thù địch ra khỏi Đông Dương rồi lại phải đối đầu với Hà Nội.
Thái độ của người Việt Nam cũng vậy, thay đổi qua nhiều năm.
Trong khi theo đuổi quyền lợi đất nước, Hồ Chí Minh duy trì một hình thức quan hệ có tính cách truyền thống. Tự tay ông ta viết thư cám ơn Mao và bằng những lời phát biểu công khai nói rằng Việt Nam “đích thực” kính trọng Trung Hoa. Người Việt Nam, ý thức rõ hơn Trung Hoa, tài bồi một mối quan hệ, xem Trung Hoa là người anh lớn và lâu dài. Francois Joyaux, ghi nhận rằng hồi đầu thập niên 1960, những nhà lãnh đạo Việt Nam đã dùng cùng một tiêu đề cho Mao giống như các vị vua Việt Nam trước kia đã dùng với các vị hoàng đế Trung Hoa. Hồ chỉ thị cho các viên chức cao cấp tháp tùng các phái đoàn thượng thặng của Trung Hoa khi họ viếng thăm Việt Nam là phải tiếp tục cung cách triều cống như ngày xưa. Joyaus nói quan điểm xem Trung Hoa là chúa tể đối với VN “là một hiện tượng lạ kỳ, còn phức tạp hơn thế nữa. Thực ra, người ta có thể nhớ lại một số trường hợp các nhà lãnh đạo Việt Nam tự xem họ là “chư hầu” của Trung Hoa”. Trong khi thách thức với Trung Hoa để bảo vệ quyền lợi đất nước, người Việt Nam lại dùng những phương cách cũ.
Tuy nhiên, phương cách đó dần dần biến mất vì sự xung khắc ngày càng căng thẳng giữa hai bên và đặc biệt là sau chuyến viếng thăm lịch sử của tổng thống Nixon đến Trung Hoa. Người Việt Nam coi đó là sự phản bội. Năm 1972, Liên Xô và Hà Nội công bố mà không nói rõ tên ai rằng đó là một sự “thỏa hiệp đáng thương rơi vào con đường đen tối và bùn lầy.”
Sau chiến thắng vẽ vang năm 1975, bây giờ một nước Việt Nam đầy tự tín, quân đội mạnh mẽ, không những muốn thỏa hiệp những gì được xem là quyền lợi quốc gia để làm vui lòng Trung Hoa mà cũng muốn xác quyết lại việc điều hòa quan hệ với Trung Hoa bằng cách từ bỏ những đường lối, mặc dù trống rỗng và vô nghĩa, bày tỏ lòng tôn kính với kẻ khổng lồ phía Bắc. Đã đến lúc Việt Nam sẵn sàng trả giá cho công việc lãnh đạo cách mạng vùng Đông Nam Á.
Tuy nhiên, điều biểu thị bi thảm nhất cho nền độc lập có tính cách thách thức của Việt Nam xảy ra hồi tháng 9/ 1975 khi tổng bí thư Lê Duẩn của đảng CSVN chấm dứt chuyến viếng thăm Bắc Kinh mà không có một bữa tiệc tiễn chân theo truyền thống ngoại giao. Có thể nói thêm rằng các nhà lãnh đạo Cọng sản Trung Hoa hy vọng một mối quan hệ ngoại giao có tính cách triều cống như xưa đối với Việt Nam, nhưng căng thẳng đã xẩy ra ở Trung Hoa về việc Việt Nam “vô ơn và lòng dạ đen tối” và sự “to đầu bướng bỉnh” của họ từ khi bắt đầu có cuộc xung đột công khai thì đó không còn là mối quan hệ của thế kỷ 20 nữa. Những lời gây xúc động ấy đối với việc bỏ công vô ích của Trung Hoa ở một nước láng giềng nhỏ bướng bỉnh như Việt Nam là hành động sai lầm. Hà Nội đòi lại quần đảo Hoàng Sa trong biển Nam Hải (Trung Hoa chiếm năm 1974), Hà Nội sai lầm trong việc đối xử với nhóm thiểu số người Hoa sinh sống ở Việt Nam, cố gắng của Hà Nội nhằm cai trị toàn Đông Dương, được Bắc Kinh xem như Việt Nam ngạo ngược. Bắc Kinh hết sức bối rối vì Việt Nam chế nhạo những tình cảm và quan điểm của Trung Hoa vì như vua Yongle ghi nhận từ năm trăm năm trước Việt Nam “liên hệ quá gần gủi” với Trung Hoa.
Một lý do quan trọng để Trung Hoa chống lại việc Việt Nam cai trị toàn cõi Đông Dương - một sự chống đối có tính cách quyết định và xâm lấn hơn bất cứ thời kỳ nào trong quá khứ - là Hà Nội tỏ ý coi thường Trung Hoa, sắp xếp một tiến trình thân hữu với Liên Xô là kẻ thù của Trung Hoa. Thắt chặt quan hệ chính trị, kinh tế và quân sự với Moscow, Việt Nam tạo ra một đe dọa mới mà kể từ năm 1949, chưa bao giờ Trung Hoa phải đương đầu. Hoàng đế Hongwu khuyên các người kế nghiệp ông chẳng bao giờ nên xâm lấn các bộ tộc man rợ phía Nam nếu không có đủ lý do chính đáng vì mối đe dọa chính của Trung Hoa thường từ phía Bắc xuống. Tuy nhiên, khi chiến tranh Đông Dương lần thứ hai chấm dứt năm 1975, với việc người Mỹ ra đi không kèn không trống thì Trung Hoa thấy mình phải đối đầu với một đe dọa hoàn toàn mới. Cùng với 50 sư đoàn bộ binh của Liên Xô dàn ra với vô số hỏa tiễn và không quân triển khai ở phía Bắc, lại có viễn tượng một liên minh Xô-Việt ngay ngưỡng cửa phía Nam. Nhiều năm sau, một viên chức cao cấp Việt Nam giải thích rằng liên minh Việt Nam - Liên Xô chỉ để chống lại Trung Hoa. Ông ta nói: “Trong toàn bộ lịch sử, chúng tôi chỉ có an toàn không bị Trung Hoa xâm lấn là với hai điều kiện: Một là khi Trung Hoa suy yếu, nội bộ phân ly. Điều kiện thứ hai là khi họ bị đe dọa vì những giống rợ ở phía Bắc của họ. Trong thời đại ngày nay, người Nga là giống rợ của Trung Hoa đấy.”
Liên Xô hỗ trợ Việt Nam thống trị Đông Dương là một mối đe dọa cho Trung Hoa mà cũng là một thách thức đối với thế giới “tự nhiên” chịu ảnh hưởng Trung Hoa ở Đông Nam Á. Mở ra mối quan hệ Hoa-Mỹ năm 1972 là cuối cùng đuổi “con sói” chủ nghĩa Đế quốc Mỹ khỏi ngưỡng cửa Trung Hoa, nhưng năm 1978, “con cọp” Liên xô, con vật đã từng gầm gừ ở phía Bắc Trung Hoa, bây giờ lại xuất hiện trong tầm mắt của Bắc Kinh, an toàn tại nơi trú ẩn ở phía Nam Trung Hoa vậy. Trong chiến lược sắp xếp như thế, một số ít nhà cai trị Trung Hoa có thể nào làm ngơ trước lời kêu cứu từ một nước triều cống của họ khi nước đó đang đối đầu vớI đe dọa như của Thiên Triều? Dù có sự xác định lý thuyết với Mao của Trung Hoa, nước Kampuchia Dân chủ đang bị đánh phá, dĩ nhiên nước này không phải là một chư hầu. Tuy nhiên, kinh nghiệm quá khứ của Trung Hoa và nỗi sợ hãi ngày nay cho thấy Trung Hoa vẫn tiếp tục coi Viêt Nam và Kampuchia cũng chỉ ở trong đường hướng đó mà thôi, như các hoàng đế của họ từ những thế kỷ trước vậy.