Chính sách bảo hộ của Mỹ đối với Bắc Kinh
Bắc Kinh giúp Hà Nội trong cuộc chiến đẫm máu và coi đó là phương cách bảo đảm làm cho kẻ thù đế quốc suy yếu. Họ còn muốn hân hoan đón quân Mỹ xuất hiện ở gần biên giới của họ, coi đó là một sự bảo đảm sẽ không bị tấn công bằng bom nguyên tử. Thủ tưóng Chu Ân Lai nói với tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser hồi năm 1965 ở Cairo: “Chúng tôi sợ vài tay quân sự Mỹ có thể thúc đẩy một cuộc chiến nguyên tử chống lại Trung Hoa và chúng tôi nghĩ rằng việc Mỹ dính líu vào Đông Dương là một chính sách bảo đảm chống lại một cuộc chiến nguyên tử như thế, bởi vì chúng tôi có móng tay bấu vào vô số da thịt của họ. Mỹ đưa nhiều quân đội vào Việt Nam thì chúng tôi vui sướng hơn vì chúng tôi có đủ sức mạnh nắm lấy họ, nắm lấy máu thịt họ.”
Giữa các năm 1965-68, Trung Hoa gởi 320 ngàn người gồm binh lính, công nhân và nhân viên kỹ thuật (để mở rộng đường xe lửa Trung Hoa-Việt Nam), các đơn vị phòng không và các cố vấn kỹ thuật tới Việt Nam. Sự hiện diện đó là một đòn tính toán để làm nãn lòng người Mỹ, khiến họ không xâm lăng Bắc Việt Nam hoặc đe dọa phía Nam Trung Hoa. Bắc Kinh cũng cung cấp phương tiện vận chuyển cán bộ Cọng Sản VN và cố vấn của họ sang Lào qua ngã Trung Hoa, viện trợ cho Việt Nam với tổng số lên tới ba chục ngàn xe vận tải để chuyên chở mười ngàn tấn vũ khí của Trung Hoa xuống phía Nam dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh và dàn xếp với Sihanouk để được vận chuyển vũ khí và lương thực cho Việt Cọng qua ngã Kampuchia.
Tháng Tư/ 1980, tôi tới Bắc Kinh để phỏng vấn Hàn Niệm Long, thứ trưởng ngoại giao Trung Hoa, cánh tay mặt trong thời kỳ cuối cùng của thủ tướng Chu, và một trong những nhà cấu trúc chính sách của Trung Hoa về Đông Dương. Tôi hỏi ông ta tại sao Trung Hoa, sau khi đã giúp Việt Nam có mặt ở Lào và Kampuchia trong suốt thời gian chiến tranh, tới bây giờ chống lại việc ấy. Lắc đầu một cách rất rõ ràng, Hàn nói rằng tình hình lúc ấy và bây giờ rất khác nhau. Lúc ấy “họ (Việt Nam) thực hiện một con đường chiến đấu xuyên qua Lào và Kampuchia như là một con đường thống nhất nhằm chống đế quốc Mỹ.
Dĩ nhiên lúc ấy chúng tôi ủng hộ họ... Một điều chúng tôi không ngờ là nước ấy bị thế lực đế quốc bắt nạt trong chiến tranh thì nay họ lại bắt đầu bức hiếp các nước anh em khác khi họ đã giành được thắng lợi cuối cùng.”
Hàn đưa ra một lời tuyên bố đáng kinh ngạc rằng Trung Hoa “chẳng bao giờ nghe Hồ Chí Minh nói gì về một Liên Bang Đông Dương.” Họ cố ý vẽ ra hình ảnh những người lãnh đạo Việt Nam hiện nay là “phản bội” chính đường lối Mác-xít của Hồ, Bắc Kinh mô tả Việt Nam xúc tiến bá quyền ở Đông Dương là chỉ sau 1975. Nhưng, trong chỗ riêng tư, các viên chức cao cấp của Trung Hoa, gồm cả Đặng Dĩnh Châu (Wang Guangmei), vợ góa của Lưu Thiếu Kỳ, phê bình Hồ vì Hồ âm mưu thành lập Liên Bang Đông Dương.
Bàn về tham vọng của Việt Nam ngày xưa muốn cai trị cả Đông Dương, một viên chức cao cấp Tân Hoa xã, hồi tháng 3/ 1982, dẫn cho tôi thấy một đoạn văn trích trong cương lĩnh của đảng Lao Động Việt Nam (VWP) năm 1951, nói về Liên Bang Đông Dương. Ông ta nói: “Ngay cả trong thời kỳ chống Mỹ, người Việt Nam (lúc ấy Hồ Chí Minh còn lãnh đạo) không bao giờ bỏ rơi ý nghĩ này. Họ luôn luôn sẵn sàng thành lập Liên Bang Đông Dương... Dưới danh nghĩa bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh, họ đưa quân đội tới Hạ Lào và Kampuchia. Nhưng sau khi chiến tranh chấm dứt, thay vì rút quân đội này về, họ lại gởi thêm quân tới những vùng khác, chẳng hạn như ở thượng Lào.”
Nhận xét này của Bắc Kinh về vai trò Việt Nam ở Đông Dương không đơn giản chỉ là viết lại lịch sử. Có thể Trung Hoa không tiên liệu, như Hàn tuyên bố, Việt Nam không che dấu cố gắng của họ để cai trị toàn vùng. Có đầy đủ chứng cớ cho thấy trong khi tiếp tục viện trợ to lớn cho Việt Nam trong thời chiến, Bắc Kinh lo lắng về vai trò của Việt Nam trong tương lai ở Đông Dương. Từ giữa thập nên 1960, Trung Hoa bắt đầu xây dựng một con đường chiến lược từ Vân Nam tới Bắc Lào. Cũng nhằm mục đích này, Trung Hoa đóng ở Lào 20 ngàn quân, gồm các đơn vị công binh cùng phòng không để bảo vệ toán quân này. Những đơn vị quân đội này không chỉ nhằm mục đích ngăn ngừa cuộc tấn công bất thần của Mỹ mà còn là một cố gắng để cân bằng với lực lượng quân đội Việt Nam Công Sản hiện diện ở Lào. Sau khi thảo luận tình hình con đường này với Chu Ân Lai năm 1974, Henry Kissinger kết luận một cách thỏa mãn rằng việc Trung Hoa có mặt ở Lào được xem như là một sự thay thế “cho khu vực còn trống vì quân đội Việt Nam CS chưa tiến tới để cai trị toàn Đông Dương.”
Những cố gắng của Trung Hoa hồi cuối thập niên 1960 và đầu 1970 tưởng thưởng cho một số phần tử Pathet Lao muốn tránh khỏi lệ thuộc vào Việt Nam, đưa tới các cuộc tranh chấp và ám sát, ít ra là số phận một nhân vật Lào thân Bắc Kinh. Lãnh tụ Pol Pot của đảng CS Kampuchia thăm Trung Hoa hồi cuối năm 1965 và nhận được sự hỗ trợ của Mao vì chính sách độc lập của Pol Pot không phụ thuộc vào Hà Nội. Tuy nhiên cuộc đảo chánh xảy ra hồi tháng 3/ 1970 tạo ra một tình trạng mới, qua đó, sư hợp tác giữa ba đảng CS của ba nước trở thành khẩn thiết.
Ngay khi thái tử Sihanouk vừa mới bị lật đổ, một hội nghị cao cấp về Đông Dương đưọc triệu tập ở Quảng Đông vào tháng Tư/ 1970. Tại hội nghị này, gồm có Sihanouk, Phạm Văn Đồng, hoàng thân Souphanouvong của Pathet Lào, Nguyễn Hữu Thọ của Mặt trận Giải phóng Miền Nam VN, đã đưa ra một bản tuyên bố khuyến cáo về việc chống lại bất cứ một đảng nào âm mưu cai trị toàn vùng. “Đặt căn bản trên nguyên tắc giải phóng và sự bảo vệ của mỗi nước là nhiệm vụ của nhân dân nước đó,” bản tuyên bố còn nói rằng “Các đảng phái riêng rẽ phải đảm nhận tất cả những gì họ có thể làm được và có thể có sự giúp đỡ hỗ tương tùy thuộc vào yêu cầu của đảng liên hệ và trên căn bản tôn trọng lẫn nhau.” Bản tuyên bố cũng nhấn mạnh đến việc hợp tác trong tương lai nhằm xây dựng cho mỗi nước “có thể tùy thuộc vào phương hướng của nước đó.” Mặc dù có những lời lưu ý này, sự quan hệ giữa Khmer Đỏ và Trung Hoa, ý định về việc thiết lập sự hợp tác Đông Đương coi như chết yểu. Hồi tháng Tư/ 1979, nói với tôi trong một cuộc phỏng vấn, thái tử Sihanouk cho rằng các nhân vật Khmer Đỏ làm việc với ông và Trung Hoa đã bỏ rơi đề nghị của ông đòi triệu tập một cuộc họp tối cao về Đông Dương tại Hà Nội năm 1971 với mục đích điều hòa và tăng cường liên minh. Một lý do Trung Hoa không thuận là họ không muốn gây trở ngại, làm căng thẳng thêm tình hình với Hoa Thịnh Đốn. Tháng Bảy/ 1971, Henry Kissinger bí mật thăm Bắc Kinh, chuẩn bị cho cuộc thăm viếng lịch sử của tổng thống Nixon vào năm tới. Nhưng trên hết, Trung Hoa muốn tránh bất cứ một cuộc họp mặt nào có thể hậu thuẩn cho vị thế quân sự chính yếu của Hà Nội ở Đông Dương.
Nói chuyện với cựu thủ tướng Pháp Mandès France ở Bắc Kinh hồi tháng 12/1971, Sihanouk cho rằng sau khi chiến tranh Đông Dương chấm dứt thì Đông Dương không thể rơi vào tay một quyền lực độc nhất nào cả - có nghĩa là Hà Nội. Hậu quả thiếu quân bình không thể trở thành một cơ hội cho bất cứ ai. “Tôi đã thảo luận vấn đề này với thủ tướng Chu Ân Lai và ông ta đồng ý với tôi. Tình trạng cũ của Đông Dương có thể tồn tại là hoàn toàn độc lập và Trung Hoa giúp đỡ để bảo đảm tình trạng đó.” Sihanouk nói với cựu thủ tướng Pháp như vậy.
Cựu thủ tướng Pháp nói lại với Chu Ân Lai việc này, người đối thoại với ông trong hội nghị Genève trước kia, và các nhà lãnh đạo Trung Hoa khác. Ông ta kết luận: “Rõ ràng Trung Hoa không muốn bất cứ một quyền lực nào, trong đó có cả Bắc Việt Nam chế ngự hay cai trị toàn cõi Đông Dương. Họ nói tới tính độc lập của mỗi đơn vị chính trị, không riêng gì Lào, Kampuchia mà cả Nam VN nữa.”
Đối với Trung Hoa, hiệp định hòa bình Paris tháng giêng năm 1973 là một sự đảm bảo chống lại Việt Nam CS bá quyền. Nói chuyện với đại sứ Pháp Etienne Manac’h hồi đầu năm 1973, Chu nhấn mạnh đến một điều có tính cách quan trọng liên hệ đến Bắc Kinh là điều khoản 20 của hiệp định này, điều đó nói rằng phải “rút lui tất cả quân đội ngoại nhập” khỏi lãnh thổ Kampuchia và Lào. Chu nói: “Chúng tôi sẽ không đến đó (Kampuchia) nhưng chúng tôi cũng không muốn bất cứ ai đến đó.”
Năm 1972, Hoa Kỳ được khuyến cáo rằng Bắc Kinh muốn thấy một “Đông Dương bị Balkan hóa”. Đó cũng là đường lối Washington đã làm. Một sự thông cảm làm cho căng thẳng Hoa-Mỹ dịu đi.
Theo một câu chuyện của người Việt Nam sau khi xung đột Hà Nội - Bắc Kinh bùng nổ công khai: Mao khuyên Đồng nên để cho Miền Nam tách riêng ra. Mao nói riêng với Đồng hồi tháng 11/1972, “Người ta không thể quét quá xa nếu cái cán chổi quá ngắn. Đài Loan quá xa nên cái chổi của chúng tôi không với tới được. Đồng chí! Thiệu ở Miền Nam cũng quá xa với tầm chổi của đồng chí. Chúng ta phải trở lại với chính vị trí của chúng ta.” Đồng bảo đảm với chủ tịch Mao rằng cái cán chổi của ông ta rất dài. Không chối bỏ giai thoại đó, sau này Bắc Kinh giải thích rằng, theo sự phán xét của họ, Hà nội phải chờ một thời gian trước khi mở cuộc tấn công để thống nhất Nam Bắc bởi vì khi ấy, Hoa Kỳ không thể can thiệp vào Việt Nam một lần nữa.