Chờ trận mưa Đôla
Chẳng bao lâu sau mùa xuân năm 1975, khi truyền hình Mỹ chiếu lên màn ảnh hình ảnh các chuyến bay di tản người tỵ nạn và quan chức Mỹ trước khi Cọng Sản vào Saigon, Hoa Thịnh Đốn muốn quên Đông Dương đi. Họ giữ lại số tiền ký quỹ 150 triệu của Việt Nam (Cọng Hòa) trước kia ở Hoa Kỳ và cấm vận Việt Nam và Kampuchia. Sau những xúc động ngắn ngủi về vụ tàu Mayaguez hồi tháng năm, Đông Dương chìm mất trong tầm nhìn của người Mỹ.
Hoa Kỳ chán ngấy và thấy chẳng có lợi gì ở Đông Dương nữa thì hầu như ngược lại, Việt Nam hết sức mong muốn lập lại quan hệ với đối thủ cũ. Ngay trước khi chiến tranh chấm dứt, Hà Nội quyết định củng cố quan hệ với Tây phương, đặc biệt với Hoa Kỳ. Đó là bước chủ yếu để tiến tới thời kỳ xây dựng tiếp sau.
Vài ngày sau khi Cọng sản chiến thắng Saigon, tôi hỏi một anh lính đứng canh tại tòa đại sứ Mỹ cũ tại sao không treo cờ chính phủ Cọng Hòa/ MNVN trên tòa nhà nầy trong khi đó họ lại treo cờ “giải phóng” trên các tòa đại sứ phương Tây khác. Anh lính trả lời: “Tại chúng tôi không được phép.” Trong cách nhìn, nó không đơn giản. Hà Nội hội hè thắng trận, nhưng điều quan tâm hơn là chiến thắng hòa bình. Tháng Bảy/ 1975, tôi hỏi Hoàng Tùng, biên tập nhật báo Nhân Dân của đảng khi ông ta sắp sửa xuất bản “Saigon papers” - một số lượng vĩ đại về những tài liệu bí mật lấy được ở Saigon. Giữa những tài liệu đáng tin cậy ấy là các băng từ computer nói về hoạt động của CIA ở Việt Nam để lại cho các viên chức Cơ Quan Tình Báo Việt Nam (CIO) đồng sự với CIA. Hoàng Tùng rất tin tuởng khi trả lời: “Việt Nam không muốn trưng những tài liệu này ra và xát muối vào vết thương của người Mỹ.” Ông ta nhắc lại những điều Hồ Chí Minh nói với ông hồi năm 1954. Sau khi Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ. Họ Hồ ra lệnh cho Tùng lúc ấy đã là biên tập tờ nhật báo đảng là đừng quá say sưa với chiến thắng của mình. Hồ giải thích: “Trong thời gian tới, chúng ta cần tình thân hữu và hợp tác của Pháp.”
Vào lúc đó, Tùng không nói với tôi lý do quan trọng nhất là Việt Nam hết sức mong muốn tái lập quan hệ dân sự với Hoa Kỳ, là nguồn hy vọng để có thể nhận được 4 tỷ 7 đôla viện trợ kinh tế mà Richard Nixon bí mật hứa trong khi ký hiệp định Paris. Trong khi chờ đợi người Mỹ thực thi yêu cầu đó, Việt Nam bắt đầu ve vãn các ông chủ ngân hàng và thương giới Mỹ. Chỉ hai tháng sau khi Saigon sụp đổ, đại diện Bank of America và First National City Bank được mời tới Việt Nam để nghiên cứu khả năng thương mại và tài chính. Cũng trong vòng hai tháng sau khi Saigon sụp đổ, Việt Nam tỏ dấu cho thấy họ đón mừng các công ty đã khai thác dầu ở ngoài thềm lục địa Việt Nam quay trở lại.
Ngõ lời trước Quốc Hội ngày 3 tháng Sáu, một tháng sau khi Saigon sụp đổ, Phạm văn Đồng đưa ra đề nghị Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam và vinh danh Hiệp Định Hòa Bình Paris bằng viện trợ tái thiết Việt Nam. Lời kêu gọi đó bị Hoa Thịnh Đốn từ chối. Hồi tháng 11/ 1975, Hoàng Tùng nói với một nhóm người Mỹ: “Trong các dịp lễ người Việt Nam chúng tôi thường chơi đô vật. Cuối cùng chúng tôi ôm hôn nhau. Việt Nam thì sẵn sàng nhưng Ford thì không chịu.”
Có một sự đáp ứng, nâng cao hy vọng nhất thời: Ngoại trưởng Henry Kissinger hồi tháng 11/ 1975, đáp ứng dịp Hà Nội phóng thích 9 người Mỹ đã bị bắt hồi tháng Ba ở Nam Việt Nam, cho phép một nhóm hoạt động tôn giáo và nhân đạo gởi đồ cứu trợ cho Việt Nam. Ngày 24 tháng 11, Kissinger tuyên bố quan hệ Mỹ Việt Nam “sẽ không căn cứ vào quá khứ. Chúng tôi chuẩn bị đáp ứng với ý hướng tốt đẹp. Nếu chính phủ các nước Đông Dương “chứng tỏ sự thông cảm” cho người Mỹ và quan tâm của các nước láng giềng của họ, “xây dựng” trên vấn đề 832 người Mỹ mất tích, trao trả hài cốt của họ thì Hoa Kỳ “sẵn sàng đáp ứng.”
Báo New York Times ghi nhận: “Đây là sự bắt đầu đáng ca ngợi, có tính cách uyển chuyển mới đối với các chế độ Cọng Sản ở Đông Dương, nhưng cũng còn một con đường dài phải đi.” Nó gợi ý rằng Hoa Kỳ sẽ không dùng quyền phủ quyết đã dùng hồi tháng Tám, ngăn Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc.
Tuy nhiên, phương hướng của Hoa Thịnh Đốn là muốn quên Việt Nam chứ không phải là làm dịu đi. Với cuộc bầu cử sắp tới, Gerald Ford đang đối đầu với thách thức của hữu phái: Ronald Reagan. Ngay từ đầu, việc viện trợ cho Việt Nam, về mặt chính trị, chẳng có cơ may gì sẽ được chấp thuận. Rõ ràng trong vị thế khó khăn của Mỹ, Kissinger mới nói phần trả lại hài cốt người Mỹ mất tích còn “toàn bộ những người này thì chưa tìm ra, đó hoàn toàn là điều kiện tiên quyết, nếu không có điều ấy chúng tôi không thể xem xét việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao được.” Ngay cả Nixon cũng nói riêng với Ủy Ban Quốc Hội tìm kiếm người Mỹ mất tích ở Đông Nam Á là mối quan tâm, là trở ngại buộc Hà Nội từ bỏ yêu cầu viện trợ. Kissinger nói: “Nếu không vì vấn đề người Mỹ mất tích thì họ lèo lái về phía chúng ta. Chúng ta thì lo lắng hơn. Họ cương quyết hơn.”
Tuy nhiên, Hà Nội không bao giờ từ bỏ hy vọng nhận được đôla Mỹ và đạt được quan hệ ngoại giao bình thường. Trong khi tranh cải vấn đề người Mỹ mất tích không phải là điều khoản quan trọng trong hiệp định Paris, trừ phi người Mỹ hoan nghênh viện trợ tái thiết. Dù sao, hồi tháng Chạp/ 1975, Việt Nam cũng đã trao trả hài cốt ba nguời Mỹ. Họ cũng trao trả hài cốt hai thủy quân lục chiến Mỹ chết cuối cùng ở Nam Việt Nam và đưa ra một danh sách gồm 12 người Mỹ mất tích. Đó cũng là một sự tính toán đầy hy vọng Mỹ sẽ có hành động tương xứng bằng viện trợ, nhưng chưa thấy gì. Chiến thuật mời các hãng Mỹ khai thác dầu ngoài thềm lục địa trở lại cũng chẳng thành công. Trước khi Saigon sụp đổ, gần một chục công ty dầu Mỹ đầu tư khoảng một trăm triệu đôla để khai thác dầu ở Nam Việt Nam. Cả hai hãng Mobil và Shell cùng khai thác nhưng sự sụp đổ của Nam VN xảy ra trước khi họ biết chắc chắn trữ lượng dầu có đủ tính thương mãi hay không. Từ tháng Bảy/ 1975, đại diện các hãng dầu Mỹ họp kín với các quan chức Việt Nam ở Paris để nối tiếp việc tìm kiếm dầu. Tháng Hai/ 1976, một vài người trong số đó được mời tới Hà Nội để nhận đề nghị. Nhưng rồi chẳng có gì xảy ra cả, mặc dù có áp lực từ những vận động của nhóm khai thác dầu lửa. Chính quyền Ford từ chối tháo bỏ cấm vận nếu Việt Nam không đáp ứng hoàn toàn đầy đủ vấn đề người Mỹ mất tích.
Mùa thu năm 1976, trong khi Kampuchia thanh trừng đẫm máu, và Trung Hoa đang vượt qua một giai đoạn thay đổi quan trọng, cuộc vận động bầu cử tổng thống Mỹ đang thời kỳ quyết liệt, ứng cử viên tổng thống Jimmy Carter của đảng Dân Chủ tấn công dữ dội vào tổng thống Gerald Ford, gọi ông này là “sự thất bại rắc rối nhất” vì không chịu gởi một phái bộ đi tìm dữ kiện về người Mỹ mất tích ở Đông Dương hay nói chuyện thẳng với Hà Nội. Việc ông Carter quan tâm tới vấn đề người Mỹ mất tích không chỉ là vấn đề chính trị (Hoa Kỳ đang còn chịu đau đớn về vết thương chiến tranh Việt Nam, nó còn là vấn đề rất dễ gây xúc động và dễ kiếm phiếu). Nó cũng mở đầu cuộc thử nghiệm cho một chính sách mới nhằm tiến gần Việt Nam hơn.