Dấu hiệu sai lầm phía Hà Nội
Carter chọn Cyrus Vance làm bộ trưởng ngoại giao và Richard Holbrooke làm phụ tá đặc trách về Đông Á và Thái Bình Dương. Cả hai đều có tham gia vào những cố gắng tìm kiếm hòa bình. Do những kinh nghiệm về Việt Nam, Vance tin rằng việc bình thường quan hệ với Hà Nội sẽ giúp Hà Nội bớt tùy thuộc vào Moscow và Bắc Kinh. Holbrooke cũng tin rằng quan hệ Việt Mỹ sẽ góp phần xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và các nước trong Hiệp Hội Đông Nam Á (ASEAN). Thảo luận với tổng thống mới được bầu Carter, tại sao Hoa Kỳ có lợi ở châu Á, Holbrooke nói: “Viễn Đông là nơi Mỹ gặp phải nhiều vấn đề lớn trong vòng 30 năm qua. Ba cuộc chiến tranh vừa qua của chúng ta khởi đầu từ nơi này và chúng ta cũng có một trận đánh ngay tại quê nhà, rồi để mất Trung Hoa, Korea, Việt Nam và Kampuchia. Tôi nghĩ rằng chính quyền của tổng thống có thể vượt qua một khúc quanh. Chúng ta từ bỏ chính sách liên tục gây nên nhiều hậu quả như trên và xây dựng lại một vị trí hợp lý hơn ở châu Á.”
Carter, nguyên là thống đốc Georgia, một người chẳng bao giờ giữ chức vụ gì có liên hệ đến chiến tranh Việt Nam, chẳng liên hệ gì tới những học thuyết chiến lược lớn về trật tự mới ở châu Á. Holbrooke nói với tôi: “Tôi không nghĩ là Carter có những cảm nhận nhẹ nhất về vấn đề này. Carter chỉ thấy lợi ở Việt Nam vì nó là biểu tượng cho một sự kiện quan trọng, vì nó là một trong những lý do khiến ông ấy được chọn làm tổng thống, vì ông là ứng cử viên thời kỳ sau Việt Nam. Ông ta rất muốn bình thường hóa quan hệ với Việt Nam vì đó là một biểu tượng. Ông ta cũng rất muốn bình thường quan hệ với Trung Hoa và Cuba. Ông ta muốn bình thường với tất cả mọi người.” Vì là tổng thống đầu tiên sau chiến tranh Việt Nam, công việc ông ta là hàn gắn phân ly ở trong nước và phục hồi hình ảnh Mỹ đã bị lu mờ ở ngoại quốc. Bỏ vấn đề Việt Nam lại phía sau, một trong những hành động đầu tiên của ông khi làm tổng thống là đưa ra một lời xin lỗi chung cho những người trốn quân dịch. Điều quan trọng khác là muốn quên đi nỗi đau khổ quá khứ, có tới hai ngàn năm trăm người mất tích ở Đông Dương, trong đó có hơn 800 người đưọc ghi vào danh sách những người đã hy sinh khi thi hành nhiệm vu.
Vì đòi hỏi một điều không thực tế là có đủ những người Mỹ mất tích trước khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, chính quyền Ford thực ra đã kết thúc vấn đề. Trong suốt thời gian vận động bầu cử, Ford phải tự che mình vì bị tấn công, bị cho là kẻ khù khờ. Tuy nhiên, công việc của Cater nhẹ hơn nhờ bản tường trình của Ủy Ban Quốc Hội tìm kiếm người Mỹ mất tích ở Đông Nam Á, đứng đầu là dân biểu Sonny Montgomery của đảng Cọng Hòa. Bản tường trình không những kết luận rằng “Không người Mỹ nào còn sống đang bị ở tù ở Đông Dương hoặc nơi nào khác do hậu quả chiến cuộc Đông Dương” nhưng bản tường trình đó cũng nói rằng “đối với toàn bộ vấn đề người Mỹ mất tích thì các chính phủ Đông Dương không thể mà cũng không mong có được.”
Tất cả nghị trình về chính sách ngoại giao của chính phủ mới, đối với chiến cuộc Việt Nam thì coi như đóng lại rồi, trở thành một việc đơn giản. Từ khi Hoa Kỳ không trông mong tìm được đầy đủ số người mất tích trong chiến tranh nữa thì họ muốn có một danh sách tương đối đầy đủ nhất có thể có được. Hà Nội thì mong muốn hợp tác, đặc biệt có củ cà-rốt viện trợ nhân đạo lủng lẳng trước mặt. Trong một bản ghi nhận về chính sách ngoại giao do tổng thống vạch ra, hồi tháng Mười/ 1976, Vance đề nghị tổng thống gởi một phái đoàn đi Đông Dương để thảo luận vấn đề người Mỹ mất tích. Trong suốt chuyến đi đó, phái đoàn được trao quyền thảo luận với Hà Nội. Vance viết: “Mỹ phải chuẩn bị đưa ra Quốc hội một chương trình viện trợ nhân đạo trong đó có những phần như gia cư, sức khỏe, lương thực để tương xứng với vấn đề người Mỹ mất tích.”
Và đó là chỗ ngoặt trong chính sách ngoại giao của tổng thống Carter. Ba tháng sau khi nhậm chức, một phái đoàn do tổng thống cử đi, Woodcock hướng dẫn, tới Hà Nội. Một viên chức bộ Ngoại giao nói riêng: “Toàn bộ vấn đề chuyến đi của Woodcock là việc tuyên bố vấn đề người Mỹ mất tích coi như thế là xong. Đó không phải là vấn đề nhân đạo mà là tiền.” Ngũ giác đài giữ tên những người mất tích trong sổ xếp loại theo định kỳ cho đến khi được công bố là chết rồi.
Carter vui sướng với những kết quả đó. Đối với việc ngoại giao, đó là thành công đầu tiên của ông. Ông ta gọi sự đáp ứng của Việt Nam với phái đoàn Woodcock là “hết sức khích lệ” và thỏa mãn về những điều Việt Nam đã đóng góp cho vấn đề người Mỹ mất tích. Ông ta tuyên bố: “Tôi nghĩ rằng đó là tất cả những gì chúng ta có thể làm được. Tôi chẳng có cách nào ngoài việc nói rằng họ đã làm hết những gì đối với những người họ đã thu nhận được tin tức. Tôi nghĩ là tôi xác nhận họ làm việc một cách đáng tin.”
Việc người Việt Nam muốn hợp tác cho thấy rõ điều ấy tương phản với những lời đã kích Carter từ phía Khmer Đỏ. Sứ mạng của Woodcock chẳng đạt được đáp ứng nào từ phía Kampuchia khi ông ta yêu cầu đến thăm Phnom Pênh. Trong khi ở Vạn Tượng, thủ đô Lào, được Việt Nam hỗ trợ, đoàn đại biểu Woodcock thực hiện cố gắng chót: Một viên chức của bộ Ngoại giao với một thành viên trong đoàn đại biểu tới tòa đại sứ Kampuchia Dân chủ xin đến thăm nước này. Nhưng cũng giống như ở Kampuchia, tòa đại sứ đóng kín cửa. Sau nửa giờ gỏ cửa, bà vợ ông đại sứ, cũng là đệ nhất bí thư của cơ quan nầy mở cửa để nhận một thư viết tay của Woodcock đưa qua cánh cửa mở hé trước khi đóng lại: “Ông đại sứ không có đây.” Bà vợ ông đại sứ nói vậy. Đài phát thanh Phnom Pênh loan tin: “Cơn giận dữ của nhân dân Kampuchia chống đế quốc Mỹ và bọn chó săn vẫn còn sôi sục. Vì nhân dân Kampuchia muốn độc lập, giữ quyền tự chủ và tự do. Họ không thể chấp nhận yêu cầu của đế quốc Mỹ gởi phái đoàn đến thăm nước Kampuchia Dân chủ và không thể tham gia bất cứ một cuộc họp nào ở bất cứ nơi nào.”
Người ta không ngạc nhiên khi thấy Carter thỏa mãn với những gì mà ông ta xem là sự hòa giải mới với Việt Nam. Ông ta ghi nhận rằng trong quá khứ Việt Nam nói là không thương nghị cũng như không đưa thêm tin tức nào về người Mỹ mất tích cho đến khi Mỹ chịu bồi thường chiến tranh. Tuy nhiên, bây giờ Việt Nam đề nghị một vòng hội đàm mới ở Paris mà không có điều kiện tiên quyết nào. Theo Carter, Việt Nam nói với Hoa Kỳ “Chúng tôi không theo đuổi những thỏa hiệp hay bất đồng nào trong quá khứ. Chúng tôi nóng lòng đi tới tương lai.” Hiểu lầm về vị thế Việt Nam, Carter giải thích rằng Hà Nội sẵn sàng từ bỏ những yêu cầu trong quá khứ về việc đòi Hoa Kỳ viện trợ tái thiết. Tuy nhiên, ngay chính bản tường trình của Woodcock nói rõ rằng mặc dù không đưa ra điều kiện tiên quyết về vấn đề bình thường hóa quan hệ hai bên, Việt Nam không nghi ngờ gì việc móc nối hai bên lại với nhau.
Hà Nội mau lẹ thách đố đề nghị của Carter là việc viện trợ không lâu quá hơn những điều kiện tiên liệu việc bình thường hóa đó. Ba ngày sau khi Carter đưa ra những dấu hiệu mới, trong một buổi phỏng vấn của Thông tấn xã Việt Nam, Phan Hiền gián tiếp bác bỏ. Hiền nói ông ta quả thật có nói với phái đoàn Woodcock Việt Nam sẵn sàng hướng tới tương lai trong quan hệ mới với Hoa Kỳ nhưng “người ta không thể cắt rời tương lai với quá khứ”. Phan Hiền nói rằng quá khứ đã để lại một số chướng ngại trên con đường bình thường hóa mà chúng ta cần phải dẹp bỏ.
Nếu Carter hiểu lầm việc Việt Nam sẵn sàng bỏ quá khứ lại đàng sau, tự ông ta đưa ra những lời tuyên bố bị dịch lầm ra tiếng Việt.
Mặc dù phủ nhận Hoa Kỳ không có ràng buộc nào phải giúp đỡ Việt Nam, Carter còn đưa ra một khả năng: Ông tuyên bố: “Trong việc bình thường quan hệ hai bên, bao gồm cả thương mại, viện trợ bình thường, rồi tôi sẽ đáp ứng tốt đẹp”.
Thật ra tổng thống Hoa Kỳ không nói rõ viện trợ như thế nào mà chỉ nói là viện trợ đến sau khi quan hệ bình thường, khuyến các nhà lãnh đạo ở Hà Nội muốn thúc đẩy viện trợ như là một phần trong tiến trình bình thường quan hệ ngoại giao. Thắng lợi bầu cử của Carter và cá tính hòa giải chiến tranh của ông đã tạo hy vọng ở Hà Nội. Việc ông ta gởi phái đoàn đến Hà Nội cũng biểu lộ cá tính đó của ông. Carter tuồng như tái xác nhận quan điểm của người Việt Nam là Hoa Kỳ phải chuộc tội. Trong một lời công bố khi phái đoàn Woodcock trở về, Carter từ chối việc bắt buộc vì lương tâm. Ông ta nói: “Tôi không thấy là chúng ta phải xin lỗi hay tự mình trừng phạt. Tôi không thấy là chúng ta có mang một món nợ nào.”
Tuy nhiên, việc phái đoàn được gởi đi và ấn tượng về Việt Nam thu đạt được gì tại bàn hội nghị với Woodcock không phá tan được ý nghĩ cho rằng Hoa Kỳ có sự bắt buộc lương tâm để hàn gắn vết thương chiến tranh. Quyết định của Carter về việc tổng thống gởi một phái đoàn đi Việt Nam rất sớm, sau lễ nhậm chức, cũng làm tăng cường ý nghĩ của Hà Nội cho rằng Việt Nam vẫn còn nằm ở trọng tâm chính sách ngoại giao Hoa Kỳ và Hoa Thịnh Đốn trả một cái giá nào đó để bắt đầu thực hiện quan hệ mới.
Là những người Mácxít, những nhà lãnh đạo ở Hà Nội thường hay kết hợp những vấn đề quan trọng với hoạt động kinh tế sau khi đế quốc Mỹ can thiệp vào nước này. Họ được khuyến cáo rằng sức quyến rũ khả năng tiềm tàng về kinh tế Việt Nam, tài nguyên thiên nhiên và khả năng lao động sẽ làm cho tư bản Mỹ trở lại. Có phải viện trợ cho Việt Nam cũng có nghĩa là giúp đỡ công nghiệp Mỹ? Ủy ban Liên hợp Kinh tế Việt Mỹ đạt được bản sơ thảo thỏa hiệp năm 1973 qua đó Việt Nam sẽ mua của Hoa Kỳ 85 phần trăm hàng hóa tài trợ bằng 1 tỷ rưởi từ chương trình viện trợ. Thêm vào đó là lợi ích về vốn, Hà Nội còn hy vọng vào lòng cao thượng của người Mỹ và mặc cảm tội lỗi của họ đối với Việt Nam. Việt Nam hy vọng việc hàng ngàn người đi bộ cho hòa bình, hàng chục lãnh tụ Quốc hội, những người chống chiến tranh bây giờ sẽ thúc đẩy bình thường hóa quan hệ ngoại giao và viện trợ tái thiết.
Thực ra, các viên chức chính quyền Carter không nắm được hoàn toàn ý muốn của Việt Nam về viện trợ to lớn của Mỹ như thế nào, không hẵn là một phần thưởng cho họ đối với vấn đề người Mỹ mất tích (MIA) mà chính là một hành động bắt buộc vì lương tâm. Chắc chắn chẳng có ai nghĩ rằng Việt Nam trông chờ lòng hào hiệp của người Mỹ - giúp đỡ theo kiểu một kế hoạch Marshall mới - để xây dựng lại đất nước bị tàn phá. Một viên chức Việt Nam cao cấp xác nhận với tôi trong khi phác thảo chương trình phục hưng kinh tế sau chiến tranh ngay sau khi Jimmy Carter thắng cử, thực tế là Việt Nam trông vào lời hứa viện trợ 4tỷ 7 của Mỹ. Một viên chức Việt Nam khác nói với tôi “áp lực từ những nhà hoạch định kinh tế như Lê Thanh Nghị yêu cầu chúng tôi phải cương quyết đòi hỏi viện trợ Mỹ, coi như đó là điều kiện tiên quyết để lập lại quan hệ bình thường giữa hai nước.”
Nhiều năm sau, khi tôi nói với Richard Holbrooke về kế hoạch của người Việt được thiết lập đặt căn bản trên lời hứa của tổng thống Nixon, thì Holbrooke rất ngạc nhiên. Ông ta nói: “Họ phải bỏ ra ngoài trí óc họ việc đó đi.”
Holbrooke, 36 tuổi, một người tiến rất nhanh trong việc thiết lập đường lối ngoại giao Hoa Kỳ, là một trong những người bị con rệp Việt Nam cắn cho một phát. Công việc đầu tiên của ông là phục vụ ở Việt Nam ba năm. Kinh nghiệm đó đã ám ảnh ông.
Khi Carter và Cyrus Vance chọn ông làm phụ tá ngoại trưởng đặc trách về Đông Á, Holbrooke thấy có cơ hội để thực hiện chính sách ngoại giao của Mỹ đối với châu Á. Lập quan hệ ngoại giao bình thường với Việt Nam và Trung Hoa là những bước đầu tiên của tình hình mới. Chỉnh đốn lại quan hệ với Việt Nam là ưu tiên hàng đầu. Sau nầy một viên chức bộ Ngoại giao nhận xét: “Dick bị ám ảnh về vấn đề Việt Nam. Ông ta muốn lưu danh trong lịch sử như là một người đã hàn gắn với Việt Nam và đóng lại một chương sách đau buồn chính sách ngoại giao của Mỹ”
Đối với chính quyền Carter, tìm kiếm quan hệ bình thường với Việt Nam cũng còn vì những lý do thực tế. Bàn về Việt Nam, chính tổng thống Nixon cũng nói tới tài nguyên thiên nhiên. Việt Nam còn nhiều tiềm năng, bao gồm cả dầu lửa mà Việt Nam nắm được. Các ông chủ nhà băng và thương gia Hoa Kỳ cũng như các công ty dầu lửa thúc ép bải bỏ lệnh cấm vận. Họ không muốn các công ty châu Âu và Nhật giành mất cơ hội ở Việt Nam. Ngày 18/ 4/ 1977, Hà Nội ban hành một đạo luật tự do kinh doanh cho đầu tư tư nhân. (Điều này đáng ngạc nhiên). Mấy tháng trước đó, họ đã đưa một bản phác thảo về điều luật này cho các ông chủ nhà băng Mỹ.
Quan hệ kinh tế tùy thuộc quan điểm rộng rãi hơn về ngoại giao. Vance và Holbrooke không nghi ngờ gì một nước Việt Nam độc lập rất mong muốn có quan hệ cân bằng với các siêu cường hơn là hoàn toàn tùy thuộc vào Liên Xô. Họ thấy việc vắng bóng các nhà ngoại giao Mỹ ở Việt Nam là một yếu tố quan trọng ngăn ngừa khả năng Mỹ đối đầu với ảnh hưởng Liên Xô tại Đông Nam Á. Sau này, Vance viết trong hồi ký: “Tôi thấy việc lập quan hệ ngoại giao bình thuờng với Hà Nội, - được các bạn bè Á châu hỗ trợ mạnh mẽ, có thể làm gia tăng ảnh hưởng của chúng ta đối với Việt Nam và đem lại lệ thuộc hỗ tương về chính trị và quân sự với Liên Xô và Trung Hoa.” Chỉ có Zbigniew Brzezinski, cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống, không nhiệt tình đối với những điều ông ta gọi là “những vấn đề ngoại vi như Việt Nam”. Sự khác biệt về quan điểm này tạo ra nhiều hậu quả nghiêm trọng về sau.