Gió Tây thắng thế
Những năm sau chiến cuộc -thực ra là toàn bộ thời gian sau khi Pháp rút đi - Hà Nội chỉ có thêm hai công trình kiến trúc mới: Lăng Hồ Chí Minh màu đá xám chiếm ngự quảng trường Ba Đình -tương đương với Công trường Đỏ ở Moscow - và công trình thứ hai, không lớn bằng, là một khách sạn nằm bên bờ hồ. Khi Hồ Chí Minh chết năm 1969, Việt Nam từ chối lời đề nghị của Liên xô là đưa xác ông ta qua Liên xô để ướp và cất giữ cho đến khi Mỹ thôi ném bom. Họ không thể chấp thuận một nước khác, dù là bạn bè gần gủi, làm người canh giữ thi hài lãnh tụ của họ. Thay vào đó, các “đạo tỳ” người Nga phải qua Hà Nội để giúp ướp xác. Xác này sau đó được đưa xuống một cái hầm sâu dưới một ngọn đồi, mãi đến khi oanh tạc cơ Mỹ rời bỏ bầu trời Bắc phần. Với sự giúp đỡ của người Nga, lăng hồ Chí Minh được hoàn thành đúng vào thời điểm mừng chiến thắng năm 1975. Từ đó, lăng Hồ Chí Minh là nơi du khách thường đến thăm.
Nếu lăng HCM đánh dấu một thời kỳ thì khách sạn Thắng Lợi do Cuba giúp xây dựng là một sức đẩy của kỷ nghệ khách sạn thời đại mới. So sánh với khách sạn hàng đầu -khách sạn Metropole thời Pháp -nay đặt tên lại là Thống Nhứt- thì Thắng Lợi với những phòng có máy điều hòa không khí trông như cái hộp, bàn ghế kiểu mới, có phòng hội lớn nhìn xuống hồ là nơi lộng lẫy nhứt thành phố. Đây là nơi thích hợp để đại sứ Liên Xô tiếp tân, kỷ niệm hằng năm cuộc cách mạng Bôn-sê-vít.
Đối với những nhà ngoại giao muốn nghe chuyện kháo quanh bàn trà, thì những buổi tiếp tân của đại sứ Trung Hoa hay Liên xô, không bao giờ thiếu mặt họ.
Trung Hoa và Liên xô thường tranh nhau để lấy cảm tình thân hữu và trung thành, và Việt Nam kiên trì giữ mối hòa hợp với cả hai bên, chờ xem sẽ ngã về hướng nào. Trong báo cáo hằng ngày, các nhà ngoại giao theo dõi rất kỷ lòng trung thành của đảng Cọng sản VN với Liên xô và Trung Hoa, xem thử ai đạt được ưu thế hơn. Họ có thể so sánh các lời bình luận từ phía Liên Xô và Trung Hoa được dịch ra và đăng lại trên báo chí Việt Nam để ước lượng những dị biệt lý thuyết. Tháng 9/1975, khi một thành viên bộ chính trị đảng Cọng sản Trung Hoa, tướng Chen Xilian tới Hà Nội và lên án “chủ nghĩa bá quyền” thì báo chí Việt Nam gạt bỏ những lời đã kích này. Qua đó các nhà ngoại giao có thể tìm ra kết luận và báo cáo về nước.
Những buổi tiếp tân của Liên Xô và Trung Hoa ở thủ đô Hà Nội cũng đem lại cơ hội có giá trị để đo lường mức độ thay đổi quan hệ nồng ấm của Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Các nhà ngoại giao không chỉ theo dõi các đẳng cấp khách Việt Nam được mời nhưng cũng để mắt nhìn và dự đoán bao lâu thì các nhà lãnh đạo Việt Nam còn ngồi lại trong đảng. Công việc nầy cũng nhằm kiểm chứng bao lâu họ sẽ đi chệch đường lối đảng và chắc chắn một khoảng thời gian tương tự để có mặt tại các buổi tiếp tân của Trung Hoa hay Liên Xô.
Tối hôm 6 tháng 11 năm 1976 việc theo dõi như thế trở thành vô ích. Đại sứ Trung Hoa tại Hà Nội hủy bỏ kỷ niệm ngày Quốc khánh tháng 10 vừa qua để tưởng niệm Mao qua đời. Do đó, không có cách thức đối chiếu nào để tìm hiểu thêm các nhà lãnh đaọ Việt Nam trong buổi tiếp tân của tòa đại sứ Liên xô. Tuy nhiên khi buổi tiếp tân chấm dứt, các nhà quan sát ngoại giao cũng không phải thất vọng. Thủ tướng Phạm văn Đồng, người khách số một của buổi tiếp tân, đã làm cho các nhà ngoại giao có mặt hôm đó ngạc nhiên bởi một việc có tính cách làm mất mặt Moscow. Họ cảm thấy nghẹn khi nâng rượu mừng cách mạng Bôn-sẹ-vít thành công trước khi Đồng rời bàn tiệc. Ông ta biểu người phụ tá tìm gặp đại sứ Pháp, Charles Malo, mời ông nầy qua phòng kế bên để tán chuyện gẫu. Trong khi Đồng đứng nói chuyện riêng với Malo khoảng 20 phút, chủ tiệc, đại sứ Liên Xô B.N. Chaplin thản nhiên ngồi nhìn vào ly rượu sâm banh của ông. Sau này Malo kể lại với một bạn đồng nghiệp: “Ông thủ tướng hỏi tôi về việc làm thế nào ông có thể thực hiện chuyến đi thăm nước Pháp”. Theo ông đại sứ, chẳng có gì nghiêm trọng hay khẩn cấp cần phải thảo luận như thế. Việc Đồng đi thăm Pháp đã được chuẩn bị từ mấy tháng trước đó rồi. Rõ ràng chẳng có lý do gì mà Đồng rời khỏi bàn tiệc lâu đến như thế. Thực ra, Malo nói đùa rằng, Đồng tuồng như chẳng có gì gấp gáp để chấm dứt câu chuyện và trở lại bàn tiệc. Nói chuyện xong với Malo, thủ tướng chào từ biệt Chaplin và rời khỏi phòng.
Các nhà ngoại giao kết luận rằng hành động bất thường này, không những chỉ là một sự sắp đặt của bộ chính trị nhằm bắn ra một tín hiệu. Cái tín hiệu đơn giản tối hôm đó là Việt Nam muốn thắt chặt hơn mối quan hệ với Pháp, có lẽ với toàn bộ phương Tây hơn là với Moscow. Một thời gian sau, tin tức đưa ra từ những lần tiệc tùng của các nhà ngoại giao, cho rằng hành động bất thường của Đồng tối hôm đó cũng là một cách trả lời đối với những áp lực khéo léo của Liên Xô. Việt Nam là bạn của Liên Xô nhưng không phải là thứ dễ bị bắt nạt.
Vở tuồng tại khách sạn Thắng Lợi tối hôm đó làm cho người ta nhớ lại quá trình quan hệ với Liên Xô kể từ thập niên 1950 thay đổi như thế nào, khi Việt Nam nhìn về Liên Xô đáng kính như một mục tiêu tiến tới trong khối Xã hội Chủ nghĩa. Không những Việt Nam đánh mất sự ngây thơ của họ về chủ thuyết, mặt đối mặt với những người anh lớn, tuy nhiên với giấc mơ thống nhất đất nước, họ thấy sự thực và với nhiều cơ hội, họ mở ra một chính sách đối ngoại đặt trên căn bản rộng rãi hơn. Họ cũng sẵn sàng hướng tới Moscow. Tuy nhiên với nhận thức mới về tự do, chính sách ấy kéo dài không lâu. Vì những rắc rối với Trung Hoa và Kampuchia càng lúc càng gia tăng, kinh tế chìm sâu trong những cuộc khủng hoảng, và hành động quờ quạng mở cửa ra với phương Tây, Việt Nam thấy họ đang đứng bên lề, khó có được sự vững vàng, và rồi đến lúc họ phải nghẹn mà nuốt đi niềm tự hào để quay lại với Liên Xô.