← Quay lại trang sách

Ngày họ Hồ khóc với nỗi vui mừng

Sự ngưỡng mộ của Việt Nam với Liên Xô phải đánh dấu trở lại từ hồi đầu thế kỷ 20. Qua cánh cửa mở ra của thực dân Pháp, các phần tử quốc gia Việt Nam hiểu biết Cách mạng Bôn-sê-vít. Mãi cho đến khi người Pháp đến Việt Nam, thế giới quan của thành phần trí thức Việt Nam không vượt ra ngoài Trung Hoa. Các nhà bác học Trung Hoa cung cấp cho người Việt Nam những nét căn bản kiến thức, những tư tưởng triết học, chính trị và xã hội. Cánh cửa do người Pháp mở ra không chỉ về phần nước Pháp mà cho cả toàn thế giới nữa. Đọc Lê-nin trong một căn phòng nhỏ ở Paris năm 1920, lần đầu tiên Hồ Chính Minh thấy phấn khởi về chủ nghĩa Cọng sản. Bốn mươi năm sau, ông ta hồi tưởng lại: “Hết sức cảm động, sung sướng, và tin tưởng, những tư tưởng ấy đã thấm vào lòng tôi. Tôi mừng đến rơi nước mắt. Ngồi một mình trong phòng, tôi la to lên như đứng giữa đám đông. Hỡi những người đang bị đọa đày đau khổ, hỡi đồng bào yêu nước. Đây là cái chúng ta cần đến. Đây là con đường giải phóng dân tộc chúng ta.” (2)

Bốn năm sau, Hồ - một nhà Cọng sản quốc tế, có mặt ở Moscow. Ông không có dịp gặp anh hùng Lê-Nin, qua đời một thời gian ngắn trước khi Hồ đến đây. Ông ta theo học ở trường đại học Phương Đông tại Moscow, biết Joseph Stalin và những phần tử trung kiên khác như Radek, Zinovyev và Dimitrov. Hồ liên lạc với đảng Cọng sản Liên Xô và đảm nhiệm một công tác có tính cách quan trọng, không những với Đông Dương thuộc Pháp mà cho cả Liên Xô nữa. Cuối năm 1924, Hồ rời Moscow đi Quảng Đông qua vai trò cán bộ Cọng sản Quốc tế ở Viễn Đông để dấy lên ngọn lửa cách mạng. Sáu năm sau, ông ta thành lập đảng Cọng sản Đông Dương. Phần còn lại là của lịch sử. (3)

Dù có khoảng cách địa lý giữa Liên Xô với đảng Cọng sản Đông Dương đang hoạt động bí mật ở Hoa Nam và Việt Nam, hai mươi năm sau khi Hồ đến Moscow, Liên Xô là ngôi sao Bắc đẩu chỉ đường cho các nhà cách mạng Việt Nam. Họ vẫn còn ủng hộ mạnh mẽ chính sách đối ngoại của Liên Xô bởi vì, như một tài liệu của đảng Cọng sản Đông Dương ghi nhận năm 1935, Xô viết là “thành quách và hào lũy bảo vệ cách mạng thế giới” đang bị bọn đế quốc đánh phá, “đẩy lùi cách mạng thế giới hàng chục năm.”

Năm 1945, Cọng sản Việt Nam bắt được nhịp cầu vào một thời điểm quyết định khi tư bản thế giới bị đẩy lùi. Tháng Tám/ 1945, lợi dụng cơ hội sụp đổ của thực dân Pháp và phát xít Nhật ở Đông Dương, Cọng sản Việt Nam nắm quyền ở Hà Nội và thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cọng Hòa. Tuy nhiên, cũng giống như tổng thống Mỹ Harry Truman, chủ tịch Liên Xô Stalin làm ngơ trước lời kêu gọi công nhận và giúp đỡ của Việt Nam. Moscow thỏa mãn với thắng lợi của đảng Cọng sản Pháp ở quốc hội và chính ảnh hưởng của họ ở châu Âu sau khi chiến tranh chấm dứt, hơn là sự thành công của Cọng sản Việt Nam.(4) Chỉ sau khi không còn hy vọng gì rằng đảng Cọng sản Pháp sẽ cầm quyền và đảng nầy lên án cuộc “chiến tranh đế quốc” ở Đông Dương, Moscow thấy rằng cuộc chiến đấu của Cọng sản VN hữu ích và cần được giúp đỡ. Dù vậy, Moscow cũng không vội vàng thừa nhận chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cọng Hòa. Tháng Giêng năm 1950, theo chân Cọng Hòa Nhân Dân Trung Hoa mới thành lập, Liên Xô mới thừa nhận chính phủ Hồ Chí Minh lúc đó đang đặt căn cứ trong rừng rậm.

Tuy nhiên, dù đã thừa nhận như thế, Liên Xô và Trung Hoa vẫn muốn thỏa hiệp với Pháp hơn là ủng hộ Việt Minh đạt tới thắng lợi hoàn toàn. Họ cho rằng họ không thể bảo đảm ủng hộ Hồ Chí Minh trong trường hợp Mỹ can thiệp vào Đông Dương. Thực ra, Stalin có phương cách riêng đối đầu với Pháp. Moscow muốn có chiến tranh Đông Đương - dù có nguy hại cho Cọng sản Việt Nam- nhưng ngược lại nó hạn chế sức chống đối của Pháp với Cọng sản Châu Âu. Dưới sức ép của Liên Xô và Trung Hoa trong hội nghị Genève 1954, Việt Nam phải nhả những vùng do quân Việt Minh chiếm được. Đồng minh của họ ở Lào và Kampuchia phải chấp nhận tính cách hợp pháp của các chính phủ chống Cộng ở hai nước nầy. Họ cũng buộc Cọng sản VN chấp nhận chia đôi đất nước tạm thời ở vĩ tuyến 17 - một sự chia cắt kéo dài tới hai mươi năm. Năm 1980, tôi ngắt lời một ông đại sứ Việt Nam nhân khi nói về vai trò của Trung Hoa tại Genève để hỏi ông ta có khi nào Liên Xô không gánh chịu trách nhiệm nào hết hay không? Ông ta chỉ vào ngăn tủ đang đóng và nói: “Những điều ấy nằm ở đây. Chúng tôi sẽ đem nó ra đúng lúc.” Thế giới phải chờ 25 năm Việt Nam mới mở ra hồ sơ tố cáo vai trò của Trung Hoa ở hội nghị Genève năm 1954.

Những năm sau hội nghị Genève, khoa trương cách mạng không che dấu được sự thật là Moscow không quan tâm đến Việt Nam nhiều trừ phi tình hình ở đây phát triển có ảnh hưởng đến vai trò của Liên Xô ở châu Âu hay quan hệ của Liên Xô với Hoa Kỳ hoặc Trung Hoa. Mặc dù Liên Xô viện trợ không hạn chế kinh tế và quân sự cho Bắc Việt Nam, họ đã thất bại trong việc đòi hỏi tổng tuyển cử năm 1956, thống nhất Việt Nam theo điều khoản dự trù trong hội nghị Genève. Họ làm nản lòng những kẻ chủ trương đấu tranh võ trang ở miền Nam. Nhà lãnh đạo Sô Viết Nikita Khrushshev thấy rằng một cuộc phiêu lưu chống lại đồng minh của Mỹ sẽ làm cho cố gắng của ông ta nhắm giảm căng thẳng với Mỹ gặp rối loạn. Ông ta nói với Việt Nam, làm họ ngỡ ngàng trước ý kiến của ông: “Cuộc chiến tranh du kích bùng phát có thể gây ra chiến tranh thế giới.”

Lời kêu gọi của Khrushshev về sự “tấn công hòa bình” đối với chủ nghĩa xã hội và tái thống nhất quốc gia càng lúc người Việt Nam càng không quan tâm tới. Đối đầu với sự đàn áp Cọng Sản đang gia tăng nghiêm trọng của chính phủ Ngô Đình Diệm, Cọng sản Miền Nam tự phát cuộc đấu tranh võ trang. Trước sự thiếu nhiệt tình của Moscow, cuộc chiến tranh du kích Toàn Bộ (Việt Cọng gọi là Đồng Khởi -nd) được mở ra năm 1960 có sự ủng hộ của ủy ban trung ương đảng Cọng sản ở Hà Nội. Việt Nam CS lại bối rối vì sự cam kết đơn phương của Liên Xô trong hiệp định Genève 1962: (Ghi chú của người dịch: Nếu độc giả xem ỏVề Rờõ (R) của Kim Nhật, -một cán bộ Cọng sản hồi chánh, sẽ thấy rằng chiến tranh miền Nam VN là do Hà Nội chỉ đạo ngay từ đầu. Mặt Trận GPMNVN chỉ là bù nhìn, không có quyền lực gì. Cả Hứa Hoành trong ỏTrí thức Miền Nam theo Cọng Sảnõ cũng cho thấy rõ như vậy.) Không được xử dụng Lào làm con đường chuyển vận xuống phía Nam Việt Nam -đúng vào thời gian Hà Nội gia tăng xử dụng đường mòn Hồ Chí Minh để giúp đỡ cuộc đấu tranh ở Miền Nam.

Tuy nhiên việc leo thang chiến tranh -cùng với việc Hoa Kỳ bỏ bom ở miền Bắc và đổ quân vào miền Nam năm 1965 - và việc xung đột với Trung Hoa hầu như buộc Moscow phải gia tăng viện trợ cho Hà Nội. Việc Khrushchev bị hạ bệ làm viện trợ cho Việt Nam thêm dễ dàng.

Sự kiện Moscow chống lại Bắc Kinh vì bị Trung Hoa gán cho là xét lại và việc Moscow đồng mưu với Hoa Kỳ chống Trung Hoa buộc các nhà lãnh đạo Liên Xô phải thành thật trong việc giúp đỡ Việt Nam. Viện trợ của họ nhằm giúp miền Bắc chống lại Hoa Kỳ oanh tạc hơn là chiến tranh du kích miền Nam. Trong suốt cuộc chiến, Moscow liên tục cố gắng làm giảm thiểu xung đột và xử dụng viện trợ để làm giảm căng thẳng với Hoa Thịnh Đốn và thắng Trung Hoa trong một số việc. Bảy mươi lăm phần trăm chi tiêu quân sự của Việt Nam là do Moscow cung cấp, nhưng họ không giúp Hà Nội phương cách tự chế tạo võ khí để Việt Nam có thể mở rộng cuộc xung đột. Một tướng lãnh Bắc Việt Nam bị bắt than phiền rằng trong khi Liên Xô viện trợ hỏa tiễn chống pháo hạm cho “Nasser và Ben Bella, họ chẳng bao giờ viện trợ cho chúng tôi thứ võ khí đó để chống lại hải quân Mỹ hoạt động ngoài khơi Việt Nam.” Tôi nghe nhiều lần câu chuyện về lòng tự hào của người Việt Nam, -nhưng không kiểm chứng được -, là người Việt Nam đã cải thiện hệ thống hướng dẫn hỏa tiễn phòng không do Liên Xô viện trợ để có thể bắn hạ máy bay B-52. Liên Xô không muốn khiêu khích Hoa Kỳ nên họ viện trợ cho Việt Nam loại hỏa tiễn không thể hạ B-52 được và hoảng hồn trước chiến công của Việt Nam. Câu chuyện này có thể là ngụy tạo, nhưng nó cũng biểu lộ cách ăn nói trắng trợn của Cọng sản Việt Nam về sự giúp đỡ của Liên Xô và lòng tự hào về sự tinh xảo của họ.

Một học giả hàng đầu về chính sách ngoại giao của Liên xô, Donald Zagoria, mô tả tình trạng khó xử của Liên Xô đối với Việt Nam hồi giữa thập niên 1960 như sau: “Liên Xô... quan niệm rằng chiến tranh không phải là cuộc tranh bá đồ vương nhưng là một sự xâm nhập nguy hại tiềm tàng, chỉ làm cho chính sách ngoại giao thêm rắc rối, tạo ra tình trạng tấn thối lưỡng nan... Mục đích của nó không những vì tham vọng lên cao hơn mà còn vì hai đối thủ của nó nữa.-Trung Hoa và Hoa Kỳ. Liên sô chẳng muốn ai trong hai nước này chiến thắng hoặc làm nguy hại tới uy danh Liên Xô. Kết quả tốt đẹp nhất người Nga muốn là một sự bất phân thắng bại.”

Trong khi Việt Nam đẩy Liên Xô tới tình trạng bớt đối đầu với Hoa Thịnh Đốn bằng việc lợi dụng ý muốn của Moscow muốn nắm giữ vai trò hàng đầu khối Cọng sản, việc đãu đá mỗi lúc một gia tăng giữa Trung Hoa và Liên Xô tạo ra nhiều vấn đề nghiêm trọng cho Hà Nội. Mặc dù thỉnh thoảng gặp phải khó khăn với Moscow hoặc Bắc Kinh, những nhà lãnh đạo Việt Nam tin tưởng một cách chắc chắn rằng vì nhu cầu đoàn kết trong các tầng lớp khối xã hội chủ nghĩa, và lo sợ sự chia rẽ trong khối Cọng sản chỉ có lợi cho đế quốc, đặc biệt là cho cuộc chiến đấu của Việt Nam, Hồ Chí Minh nhiều lần cố gắng hàn gắn sự nứt rạn giữa hai ông anh lớn, nhưng tới năm 1966 thì tuồng như Việt Nam không còn hy vọng gì ở sự đoàn kết này nữa. Thay vào cố gắng làm cho quan hệ Nga-Hoa tốt đẹp hơn, họ giữ vị thế trung lập và nhận viện trợ cả hai bên.