← Quay lại trang sách

Cuộc tranh cải khó khăn mùa hè

Đầu tháng Năm/1977, Đồng quay trở lại Liên Xô, và việc ông ta ở lại đây lâu dài đưọc giữ bí mật. Mãi tới ngày 6 tháng Sáu, như từ trong bóng tối, ông ta xuất hiện họp với tổng bí thư đảng Cọng sản Liên Xô Leonid Brezhnev, sự bí mật đó mới chấm dứt. Việt Nam và Liên Xô cân nhắc trở lại việc hợp tác hai bên. Làm thế nào Việt Nam có thể đạt tới hòa giải và Liên Xô phải trả cái giá nào cho Việt Nam, chỉ là câu trả lời đầy đủ khi Liên Xô và Việt Nam sau nầy trình bày lại mà thôi. Tuy nhiên góp nhặt từ một ít tin tức lọt ra, người ta thấy cuộc khủng hoảng kinh tế của Việt Nam càng lúc càng trầm trọng. Chính sách mở cửa của họ bị thất bại buộc họ phải đi với Moscow.

Từ Moscow, Phạm văn Đồng theo dõi kỹ và không khỏi hoảng hốt về cuộc thương thảo giữa Phan Hiền và Richard Holbrook ở Paris. Ngày 3 và 4 tháng Năm, cuộc họp về bình thường quan hệ Mỹ Việt bị thất bại. Không chỉ chính quyền Carter dập tắt hy vọng của Việt Nam về viện trợ tái thiết mà ngay cả quốc hội Hoa Kỳ, ngày 5 tháng Năm, thông qua một đạo luật ngăn cấm chính phủ thảo luận bất cứ một “sự viện trợ tái thiết, giúp đỡ hoặc bất cứ một hình thức chi trả nào” cho Việt Nam. Hà Nội nhận được những tin tức không có gì tốt đẹp cả: Đêm 30 tháng Tư, Khmer Đỏ mở một cuộc tấn công lớn vào các làng Việt Nam dọc theo biên giới Miên. Lê Đức Thọ, Ủy viên bộ Chính trị, một chuyên gia về chính sách đối ngoại của đảng cọng sản VN, bí mật bay qua Moscow cùng với Đồng, mở rộng cuộc thương thảo với các nhà lãnh đạo Liên Xô về quan hệ giữa hai nước trong tương lai.

Tin tức chuyến đi bí mật của Thọ sang Moscow và thực hiện những cuộc họp lâu với Liên Xô, sau cùng cũng được các nhà ngoại giao Đông Âu ở Hà Nội rò ra. Sáu năm sau, một viên chức cao cấp của Sô Viết xác nhận với tôi rằng “một loạt các cuộc họp đáng kể” đã diễn ra ở Moscow hồi tháng Năm và Sáu/1977 đưa Việt Nam tiến gần Liên Xô hơn. Tuy nhiên, ông ta bác bỏ ý kiến cho rằng Việt Nam nghiêng về Moscow là bởi họ thất bại trong các cuộc họp với Hoa Kỳ. Theo ông ta thì “điều quan trọng nhất là họ lo sợ Trung Hoa và sự quấy rối của Kampuchia. Họ bắt đầu suy tính một vài biện pháp xử lý Kampuchia”. Tôi hỏi: “Có phải vì thế nên các nhà lãnh đạo Việt Nam có ý kiến thảo luận và ký thỏa hiệp với Lào?” Ông ta trả lời một cách bí ẩn: “Có thể đó là một điều tự nhiên khiến Việt Nam phải hỏi ý kiến các nhà lãnh đạo Sô Viết.”

Dù nội dung các cuộc thảo luận ở Moscow như thế nào, kết quả là Việt Nam tiến tới gần khối Liên Xô hơn. Cuối tháng Năm, Hà Nội thực hiện bước đầu tiên để tham gia khối Comecon, trở thành một thành viên Ngân Hàng Thế giới về Hợp tác Kinh tế (IBEC), Ngân hàng Đầu tư Quốc Tế do Liên Xô yễm trợ. Ngày 6 tháng Sáu, bốn ngày sau khi vòng hội đàm thứ hai ở Paris về bình thường hóa Mỹ-Việt thất bại, Phạm Văn Đồng chính thức họp với Brezhnev. Như báo chí Liên Xô quan sát và tường thuật “Cả hai bên đều thỏa thuận về chính sách quốc tế của hai đảng Cọng Sản, tăng cường mạnh mẽ tình thân hữu” giữa hai nước. Các bản tường trình của Moscow tỏ đầy nhiệt tình khi cho biết rằng Việt Nam đã “hợp tác toàn bộ và sự kiện đó có ý nghĩa rất lớn.” Như có phép tàng hình, các ống dẫn dầu trước kia khóa chặt thì nay lại mở ra. Chỉ trong vòng một tháng sau các cuộc họp nói trên, cuối tháng Sáu, Lê Thành Nghị lại đi Moscow và được hứa hẹn nhiều điều rất “lớn lao và thuận lợi” dành cho bốn chục công trình mà Liên Xô đã hứa xây dựng ở Việt Nam. Liên Xô cũng công bố quyết định của họ về việc “gia tăng vận chuyển hàng công nghiệp”. Như Lê Thanh Nghị báo cáo, các cuộc họp ở Moscow là “thành công vượt bực”, “biểu lộ tình đoàn kết sáng chói, hữu nghị và hợp tác” giữa hai nước.

Không có gì rõ hơn trong việc xoay hướng chiến lược do quyết định của Việt Nam mời các nhà quân sự Liên Xô tới thăm miền Nam Việt Nam. Trong vòng một năm rưởi, Việt Nam cự tuyệt một cách có hệ thống việc đề nghị của Trung Hoa và Sô Viết lập tòa lãnh sự ở thành phố Hồ Chí Minh, nhưng có lẽ do các cuộc thảo luận hồi tháng Năm và Sáu ở Moscow, tới cuối tháng Bảy, một đoàn đại biểu quân sự Liên xô gồm 21 người bí mật tới Đà-Nẵng. Để giữ kín, chiếc máy bay Liên Xô Ilyushin 62 không ghé Hà Nội, để tránh cặp mắt tò mò của các nhà ngoại giao, mà bay thẳng tới Đà-Nẵng. Liên Xô hết sức vui mừng vì Việt Nam thay đổi đường lối. Chẳng bao lâu sau, các nhà ngoại giao ở Hà Nội nhận được những tin tức biểu lộ sự vui mừng đó. Cuộc viếng thăm bí mật đánh dấu bước đầu quan hệ mới, chỉ trong vòng hai năm đủ chín mùi để thiết lập liên minh quân sự tuy mới nhưng toàn diện. Đoàn đại biểu quân sự gồm đủ 3 quân chủng đến thăm Đà Nẵng, vịnh Cam Ranh và Nha Trang, vài vị trí quân sự khác ở miền Nam. Mục đích của họ là: Nghiên cứu nhu cầu quân sự của Việt Nam cho thập niên tới. Lần đầu tiên họ đến quan sát các kho vũ khí quân dụng do Mỹ để lại -có lẽ họ tìm kiếm một thị trường tiềm tàng nào đó. Dù việc đổi chác giữa Việt Nam và Liên Xô như thế nào đi nữa, kể từ tháng Mười, Việt Nam bắt đầu lặng lẽ vận chuyển các xe bọc sắt tới cho khách hàng mới của Liên Xô: Ethiopia. Do kết quả thảo luận trong các cuộc thăm viếng nầy, Liên Xô đồng ý cung cấp cho Việt Nam hai tầu ngầm cũ, một diệt ngư lôi hạm, một số tàu tuần duyên và bốn phi đội chiến đấu cơ Mig-21. Cùng với thỏa hiệp vũ khí, số cố vấn quân sự giảm xuống hồi năm 1976 thì nay lại tăng lên vì Mosocw đảm nhận việc huấn luyện quân sự cho Việt Nam, cách xử dụng vũ khí và máy bay mới. Cuối năm 1978, tổng số cố vấn quân sự là 600 và viện trợ quân sự của Liên xô là 75 triệu.

Chẳng bao lâu sau Hà Nội bố cáo cho dân chúng và kẻ thù của họ biết, việc Việt Nam tăng cường thân hữu với Liên Xô. Nhân dịp 60 năm kỷ niệm cách mạng Bolshevik, Hà Nội có cơ hội lý tưởng để tổ chức “Tháng hữu nghị Việt-Xô.” Báo chí và truyền hình Việt Nam mở ra một chiến dịch chưa từng có bao giờ để ca ngợi Liên Xô và lòng hào hiệp giúp đỡ Việt Nam. Trong tháng kỷ niệm đó, tám đoàn đại biểu Liên Xô -từ các tướng lãnh cho tới các nhà làm phim ảnh- đến thăm Việt Nam. Một thành viên Ủy ban Trung ương đảng Cọng sản Liên Xô đi thăm thú nhiều nơi trong nước, đọc diễn văn ca ngợi cuộc cách mạng Bolshevik. Ngay cả Hà Nội cũng không còn lưu ý tới việc mặt đối mặt với Bắc Kinh, công bố cuộc viếng thăm do tướng A. Yepishev, chính ủy lục quân và hải quân Liên Xô dẫn đầu. Có một điều họ dấu kín là bốn chuyên gia hải quân đã tách khỏi đoàn đại biểu, lặng lẽ đến thanh sát vịnh Cam Ranh và Nha Trang. Liên Xô muốn quan sát kỹ những phương tiện quân sự do Mỹ để lại. Việt Nam chưa sẵn sàng để Liên Xô xử dụng các phương tiện nầy, nhưng vẫn chấp thuận cuộc viếng thăm. Hà Nội muốn nhắm mắt mặc cho Liên Xô tiến hành công việc, nếu như Liên Xô rồi ra sẽ giúp họ hiện đại hóa các phương tiện quân sự nầy.

Có một điều hơi đặc biệt, hồi mùa xuân 1977 khi giới truyền thông Việt Nam ca ngợi bứa bừa Liên Xô mà không lưu ý tới chương trình viện trợ của họ, Lê Duẩn nói: “Uống nước nhớ nguồn.” Nguồn đây là Liên Xô vì họ đã viện trợ to lớn và có giá trị cho Việt Nam, ông ta nhấn mạnh đến “tình cảm sâu sắc và lòng biết ơn chân thành”. Cuối tháng kỷ niệm đó, Lê Duẩn và nhân vật lý thuyết số 2, Trường Chinh bay qua Moscow để dự lễ kỷ niệm cách mạng tháng 10. Đúng một năm sau buổi tiếp tân của đại sứ Nga tại khách sạn Thắng Lợi, mối quan hệ Xô Việt đã toàn vẹn. Một trong những câu nói hay ho của chủ tịch Mao Trạch Đông “Gió Đông đã thắng gió Tây” như là một lời tiên tri thì nay đã thành sự thực, nhưng điều đó không làm cho Bắc Kinh vui gì.