Cuộc chiến bí mật
Hồi mùa thu năm 1977, dân chúng ở thành phố Hồ Chí Minh được nghe những người sống sót kể lại nhiều câu chuyện khủng khiếp. Những người tỵ nạn tới được Mã Lai và Thái Lan đem theo họ những câu chuyện chém giết rùng rợn của các cuộc tấn công dọc biên giới. Tuy nhiên, thế giới bên ngoài thì chỉ biết vắn tắt, mơ hồ về vấn nạn này. Việc chính phủ kiểm soát hoàn toàn báo chí và ngay cả bịt miệng những nhà báo thân hữu như trường hợp Sandor Gyori, giúp duy trì một bộ mặt ngoại giao bên ngoài bình thường. Bên trong, bộ Chính trị đảng Cọng sản Việt Nam âm thầm chuẩn bị trả đũa. Sau cuộc tấn công của Kmer Đỏ bốn ngày, ngay đài phát thanh Hà Nội cũng còn đưa tin mừng nhân dịp đảng Cọng sản Kampuchia công khai ra mắt.
Sau nhiều tháng vạch kế hoạch, - có tướng Giáp tham gia việc này, tháng Mười/ 1977, quân đội Việt Nam mở cuộc tấn công đầu tiên, - quan trọng và không công bố -, vào lãnh thổ Kampuchia. Sau khi cho xe thiết giáp tiến sâu vào tỉnh Svay Rieng của Kampuchia 15 dặm, họ giã vờ rút lui. Một tiểu đoàn bộ binh Khmer Đỏ vội vàng tiến sâu vào nội địa Việt Nam truy kích. Một đơn vị xe thiết giáp khác bọc hậu, đẩy chúng vào một cái bẩy như bẩy chuôt, vài trăm bị bắt. Tuy nhiên, sự thiệt hại đó không làm cho Khmer Đỏ ngừng tay. (3)
Có điều đáng lưu ý, trong những lời tố cáo Việt Nam sau này, - cuốn “sách đen” của chế độ Pol Pot ấn hành hồi tháng Chín/78, không nói gì tới cuộc tấn công của Việt Nam hồi tháng Mười/77. Có lẽ họ không muốn nói tới sự bại trận đáng kể đó. Trong khi Việt Nam bị tố cáo có những hành động quân sự chống Kampuchia trong những năm 1975-76, một điều đáng ngạc nhiên là Kampuchia chẳng nói gì đến những hoạt đông này của Việt Nam trong toàn bộ năm 1977. Theo cuốn sách này, chỉ có một điểm đáng lưu ý là giữa năm 1977, Việt Nam có quyết định “thiết lập một kế hoạch tấn công rộng lớn” vào Kampuchia.(4) Tuy nhiên cuốn “sách đen” đó không đưa ra một chi tiết nào của kế hoạch nói trên. Về sau, một quan chức Việt Nam tiết lộ việc chuẩn bị tấn công chống Pol Pot bắt đầu từ tháng 11 năm 1977. Những cán bộ bất mãn Pol Pot ở Khu Đông bắt đầu xây dựng kho lương thực bí mật ở trong rừng. Tuy nhiên, chưa định được ngày lật đổ Pol Pot. (5)
Hà Nội có can dự gì vào âm mưu lật đổ đó không? Với người Việt Nam, có lẽ họ rất muốn làm việc đó. Tuy nhiên, các nhà phân tích tình báo Tây phương và các học giả phỏng vấn hàng trăm cán bộ Khmer Đỏ cũ và những người Việt Nam bỏ đảng Cọng sản, cũng như họ nghiên cứu vô số lời khai của những người bị Khmer Đỏ bắt giam tại nhà tù Tuol Sleng, -nguyên là một trường học biến thành nhà tù nổi tiếng độc ác ở Phnom Pênh-, thì không tìm ra bất cứ một chứng cớ trực tiếp nào cho thấy Hà Nội có liên hệ đến những âm mưu chống Pol Pot. Nếu Việt Nam quả thật có tránh né được hệ thống tình báo của Kampuchia và vượt qua được tình trạng cô lập của Kampuchia, tiếp xúc được với nhũng kẻ âm mưu bên trong nước này thì công việc đó vẫn còn được giữ bí mật. Tuy nhiên, có điều chắc chắn là từ tháng Mười/1977 Hà Nội bước đầu thành lập lực lượng kháng chiến chống Pol Pot ở Việt Nam.
Trong nhiều cách, những cuộc tàn sát ở Tây Ninh và những kế hoạch đưa ra cho thấy có sự thay đổi sâu sắc trong mối quan hệ Việt Nam-Kampuchia và công lao một số cán bộ Khmer Đỏ, những người đã trốn qua Việt Nam. Một trong những người đó là Hun-Sen, một trung đoàn trưởng trẻ của quân đội Khmer Đỏ, đóng dọc biên giới, từ Kratié tới Kompong Cham. Đầu năm 1977, ông ta được trung ương ra lệnh sẵn sàng tấn công vào nội địa Tây Ninh sâu 9 dặm. Cuộc tấn công trên bộ do các đơn vị địa phương thực hiện, được dự trù mở ra vào ngày 30 tháng Năm, có Sư đoàn 4 Pháo binh yễm trợ. Tuy nhiên, có vài Trung đoàn trưởng và Đại đội trưởng phản đối việc họ phải đi tiên phong. Họ bị bắt và bị hành quyết. Hun Sen là người trẻ nhất trong số chỉ huy, được trung ương tin tưởng nhất, chọn làm chỉ huy cuộc hành quân. Sau này Hun Sen thuật lại với Stephen Heder: “Nhưng tôi thấy tôi không thể làm được việc này. Chẳng có cách nào khác hơn là rút quân lui và kéo vào rừng. Hôm đó là ngày 20 tháng Sáu năm 1977.”(6) Chẳng bao lâu sau ông ta theo Việt Nam.
Kế hoạch tấn công đó đưọc thi hành hôm 20 tháng Chín. Tuy nhiên, có điều mai mĩa về một cấp chỉ huy Khmer Đỏ, sau này được coi là đồng minh chính của Việt Nam: Heng Samrin, bốn mươi ba tuổi, lùn, đen, người trông có vẽ ảm đạm. Anh em của Heng Samrin cũng là cán bộ Khmer Đỏ ở Khu Đông. Không rõ vai trò của Heng Samrin trong cuộc tấn công nhưng sau đó ông ta được thăng chức chủ tịch “Mặt trận đường số 7” là khu vực dọc theo biên giới Việt Miên. Như vậy, đương nhiên ông ta là phó chủ tịch bộ tham mưu quân sự Khu Đông. Vài tháng sau việc thăng chức đó, ông ta trở thành cột thu lôi, đón nhận cơn giận dữ của Pol Pot khi các sư đoàn của ông không chống cự nổi Việt Nam. Vì vậy, ông ta phải trốn qua Việt Nam để giữ mạng sống. (7)
Vấn đề Kampuchia tạo ra hàng loạt cuộc họp giữa Việt Nam và Liên Xô hồi mùa hè 1977 tại Moscow. Liên xô cũng có những tin tức về các hoạt động của Việt Nam chống Kampuchia. Tháng 11/ 1977 một nhà ngoại giao Liên Xô ở Hà Nội báo cho một đồng nghiệp Ấn Độ biết cuộc kháng chiến chống lại Pol Pot đang được thực hiện. Lực lượng này gồm một nhóm mười hay mười lăm người ở cấp lãnh đạo trung ương, ít ra có 3 người thuộc đảng Cọng sản Kampuchia do Việt Nam lãnh đạo trước kia.(8) Nhà ngoại giao này không nói rõ lực lượng kháng chiến này đang hoạt động trong nội địa Kampuchia hay được tổ chức bên trong lãnh thổ Việt Nam.
Tới mùa thu 1977, một số người Khmer Đỏ đào thoát, gồm có: Hun Sen, Heng Samrin và Bou Thang (sau này đóng vai trò chính trong việc chống lại Pol Pot) được tập trung ở Việt Nam. Cuộc tấn công tàn bạo của Khmer Đỏ vào Tây Ninh hồi tháng Chín, cuối cùng, thúc đẩy Hà Nội chọn lựa những giải pháp khác hơn là oanh tạc và pháo kích vào Kampuchia như đã thực hiện từ tháng Năm/ 1977.
Sau nhiều tháng điều tra và xem xét, Việt Nam kết luận rằng những người đào thoát khỏi Khmer Đỏ nói trên không phải là gián điệp.
Cuộc tấn công của Khmer Đỏ vào Tây Ninh tạo ra chứng cớ khiến có thể tin được những người đào thoát này, vì một số trong nhóm họ, đặc biệt là Hun Sen đã cung cấp cho Việt Nam những chi tiết về cuộc tấn công. (9) Vì những tin tức này không được người Việt tin tưởng và không thể kiểm chứng được nên không chuyển lên bộ chỉ huy quân sự khu vực. Do đó, khi cuộc tấn công xảy ra, nhiều dân thường không được bảo vệ. Sau cuộc tấn công ít lâu, một cuộc họp bao gồm 8 người vừa mới trốn thoát để thảo luận về tương lai Kampuchia. (10)
Hà Nội thấy muốn chống Pol Pot, cần bổ sung thêm lực lượng quân sự. Tuy nhiên, trước khi đưa ra những nổ lực mới để lật đổ chính phủ Kampuchia, -lần thứ ba họ tham dự vào công việc này, hai lần trước là chống Pháp trong thập niên 1940-50, chống chính quyền Lon Nol vào thập niên 1970,- Việt Nam muốn thực hiện một cố gắng cuối cùng để đẩy Trung Hoa ra khỏi Kampuchia. Một bức điện gởi cho Trung Hoa pha lẫn những lời yêu cầu viện trợ và vén lên bức màn cảnh cáo Trung Hoa về hậu quả nếu họ ủng hộ Kampuchia.