← Quay lại trang sách

Thử nghiệm nước ở Bắc Kinh

Như các quan chức Việt Nam nói với tôi sau này, mãi đến mùa thu năm 1977, họ không chắc Bắc Kinh gia tăng ủng hộ Pol Pot. Hoàng Tùng tiên đoán rằng sau khi “bè lũ bốn tên” bị lật đổ, quan hệ Trung Hoa và Kampuchia yếu đi. Ông ta cho rằng vì nhà thực dụng Đặng Tiểu Bình lại nổi lên nắm quyền, có thể Trung Hoa đứng xa bọn cực đoan Khmer Đỏ. Những sự kiện hồi đầu năm 1977, khi Trung Hoa chính thức giảm viện trợ cho Việt Nam, làm Việt Nam dần dần xa rời viễn tượng cải thiện quan hệ với Trung Hoa. Tuy nhiên những nhà lãnh đạo Việt Nam cũng không chắc Trung Hoa vui gì vì thái độ của Việt Nam nên Trung Hoa gia tăng ủng hộ quân sự cho Khmer Đỏ để bọn này tổ chức những cuộc tấn công Việt Nam. Việc Pol Pot được đón tiếp nồng nhiệt ở Bắc Kinh hồi mùa thu 1977 và những cuộc tấn công của Kampupchia vào Việt Nam không che dấu kỹ làm cho Hà Nội thêm lo lắng. Ngày 3 tháng Mười/1977, trong khi Pol Pot tiếp tục cuộc thăm viếng thắng lợi của ông ta ở Trung Hoa thì nhà thương thuyết hàng đầu Việt Nam, Phan Hiền được bí mật phái đi Bắc Kinh. Hiền yêu cầu Trung Hoa xếp đặt một cuộc họp với Kampuchia nhằm tìm hiểu vị thế Trung Hoa trong cuộc xung đột mới nổi lên giữa Việt Nam và Kampuchia. Trung Hoa buộc lòng phải làm việc dàn xếp đó. Hai kỳ họp giữa Hiền và đại diện Kampuchia ở Bắc Kinh diễn ra gay gắt và vô ích. Kampuchia tố cáo dữ dội Việt Nam xâm lược, lật đổ và cướp phá. Đặc biệt họ lên án Việt Nam thực hiện vài vụ lật đổ bất thành chống lại Kampuchia. Ngược lại Hiền cũng tố cáo Kampuchia thực hiện những cuộc tấn công tàn bạo, nhưng Hiền đề nghị thương thảo để làm giảm căng thẳng dọc theo biên giới. Khmer Đỏ trả lời họ không thương thảo gì hết trước khi Việt Nam chấm dứt những âm mưu lật đổ và cướp phá. Tuy nhiên, về phía Việt Nam, đề nghị của Kampuchia không thể chấp thuận được. Nó chỉ làm gia tăng thêm tội ác trước khi ngồi xuống thương nghị.

Hiền cũng chẳng gặp may mắn gì hơn khi thương nghị về vấn đề biên giới Hoa Việt với Trung Hoa. Trong tháng Mười có hàng loạt cuộc họp riêng với Trung Hoa về đường biên giới dài 797 dặm với Trung Hoa và đại cương về vịnh Bắc Việt, nơi hai nước cùng chia xẻ quyền lợi với nhau. Những cuộc họp này bắt đầu ở Bắc Kinh từ ngày 7 tháng Mười, gián đoạn rồi tiếp tục qua 10 tháng trước khi nhiều hành động thù địch xảy ra.

Hồi tháng Mười, một tuần lễ trước khi Hiền đi Bắc Kinh, Hà Nội cảnh cáo dè dặt, bằng cách công bố cuộc viếng thăm của đoàn đại biểu quân sự Liên Xô. Hà Nội tuồng như muốn nói với Trung Hoa nếu họ ủng hộ Khmer Đỏ thì Việt Nam sẽ tiến gần hơn với kẻ thù của Bắc Kinh: Liên Xô. (13)

Người ta cũng thấy, một thời gian ngắn trước cuộc thăm viếng phái đoàn quân sự Liên Xô, Trung Hoa thực hiện một bước tiến đáng kể bằng cách gia tăng viện trợ quân sự cho Kampuchia. Điều ấy cũng cho thấy Trung Hoa có những người bạn tốt (như Hoàng văn Hoan, cựu ủy viên bộ Chính trị, sau này đào tẩu qua Trung Hoa), đã cung cấp tin tức, cho biết Việt Nam gia tăng quan hệ với Liên Xô. (14)

Đúng vào những giai đoạn nghiêm trọng của lịch sử, dù Trung Hoa không có tin tình báo chính xác, tuồng như họ cũng nghi ngờ đúng. Ngày 5 tháng Mười, chỉ hai ngày sau khi Hiền rời khỏi bàn hội nghị ở Bắc Kinh và 5 ngày trước khi tướng Yepishev của Liên Xô tới HàNội, tùy viên quân sự Trung Hoa ở Phnom Pênh - đại diện cho bộ Tổng tham mưu bộ Quốc Phòng Trung Hoa- ký kết thủ tục trao thiết bị quân sự cho Kampuchia. Đó là kết quả thỏa hiệp viện trợ quân sự không hoàn lại của Trung Hoa ký hồi tháng Hai/ 1976. Sự kiện này kết thúc một cách lặng lẽ việc cung cấp một số trang bị quân sự hoàn chỉnh -từ máy bộ đàm, máy truyền tin cho các chiến đấu cơ -cần thiết để xây dựng ba quân chủng cho quân đội Kampuchia.

Để bày tỏ rõ ràng hơn mối bất bình với Việt Nam, Trung Hoa cắt xén dịch vụ hàng không thường trực cho Hà Nội. Cơ quan hàng không dân dụng Trung Hoa (CAAC) dịch vụ giữa Hà Nội và Quảng Đông (Ở đây nối liền với Hongkong bằng xe lửa) là con đường chính nối với thế giới bên ngoài cho người ngoại quốc đang sinh hoạt ở thủ đô Việt Nam, thông thường ghi tên từ hàng tuần trước. Rõ ràng Trung Hoa muốn bày tỏ tức giận của họ hơn là quan tâm tới những hoạt động thương mại. Trước viễn tượng dịch vụ bị suy giảm, Trung Hoa cắt giảm các chuyến bay mỗi hai tuần chỉ còn lại một chuyến mà thôi, và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1.11.1997.

Trong khi gia tăng khó khăn cho Việt Nam, Trung Hoa tăng cường quan hệ với Kampuchia. Từ tháng Mười/1977, kỷ thuật viên Trung Hoa thiết lập trang bị viễn thông ở Phnom Pênh. Khi họ khai thông đường viễn ấn tự trực tiếp và phát thanh nối liền với Trung Hoa, là coi như công bố hồi kèn vĩ đại vào ngày 10.11.1977, đài truyền tin của tòa đại sứ Trung Hoa nối với Bắc Kinh, là con đường độc nhất Phnom Pênh nối liền với thế giới bên ngoài. (16)

Sau khi từ Moscow về được 10 ngày, Tổng bí thư đảng Cọng sản Việt Nam lại đi ngoại quốc, lần này tới Bắc Kinh. Điều hầu như bình thường là lãnh tụ đảng Cọng sản Việt Nam muốn giữ thế cân bằng giữa hai bên. Tuy nhiên, chuyến đi Bắc Kinh ngày 21 tháng 11 không phải là để lấy giây tự trói mình. Sau chuyến đi đó một thời gian ngắn, một nhà ngoại giao Việt Nam giải thích với tôi: “Đồng chí Lê Duẩn giống như vị anh hùng Lý Thường Kiệt của chúng tôi. Ông tới tận sào huyệt của kẻ thù để đối đầu với họ.” (Lý Thường Kiệt, danh tướng đời Lý, thế kỷ thứ 11. Ông thực hiện những cuộc tấn công qua Trung Hoa trước khi Trung Hoa xâm lăng Việt Nam).

Tuy nhiên, nhà lãnh đạo Việt Nam mở đầu cuộc thảo luận một cách khiêm tốn bằng những lời ca ngợi Trung Hoa. Ông ta nói với Hoa Quốc Phong: “Chúng tôi là đàn em của các đồng chí, luôn luôn đứng bên cạnh các anh, và chúng tôi không bao giờ thay lòng đổi dạ.” (17)

Dù vậy, Duẩn chỉ ra rằng, dù có nhiều quan điểm khác biệt với Trung Hoa về những vấn đề chiến lược rộng lớn, Việt Nam không đã kích Trung Hoa một cách công khai hoặc đứng về phía Liên Xô để phê phán Trung Hoa. Tuy nhiên, Trung Hoa cũng chẳng quan tâm đến vấn đề này. Duẩn muốn các nhà lãnh đạo Trung Hoa nhớ rằng điều Chu ân Lai nhắc nhở là giúp đỡ Việt Nam xây dựng xã hội chủ nghĩa và đó là”nghĩa vụ quốc tế” buộc Trung Hoa phải làm. Duẩn bày tỏ lòng thương tiếc cái chết của Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Chu Đức, và rồi, trong một lời phát biểu, ông ta nói những điều thô bạo hiện nay là phản ảnh đường lối chính trị của Trung Hoa. Duẩn nói Việt Nam tin tưởng Trung Hoa “cương quyết không cho bất cứ một giai cấp bóc lột nào ngẫng đầu lên trong cố gắng làm Trung Hoa thay đổi màu sắc.” (18)

Duẩn thất bại trong khi cố gắng thúc ép Trung Hoa ngưng hỗ trợ Kampuchia. Các nhà lãnh đạo Trung Hoa lên án Việt Nam hiếp đáp nước Kampuchia nhỏ bé, Việt Nam thúc ép xứ này trở thành nước phụ thuộc bằng “mối liên hệ đặc biệt.” Ngay cả Hoa Quốc Phong cũng xác định công khai Trung Hoa viện trợ cho Kampuchia chống Việt Nam. Trong bữa tiệc chào Duẩn, ông ta nói rằng Trung Hoa liên kết với bất cứ nước nào bị tư bản hay xã hội chủ nghĩa xâm lược, lật đổ, can thiệp nội bộ, kiểm soát hay ức hiếp, tạo thành một mặt trận đoàn kết rộng rãi nhất chống lại chủ nghĩa bá quyền của siêu cường.

Duẩn trả đủa sự thách thức của Trung Hoa bằng cách tuyên bố Việt Nam cương quyết không cho phép “bất cứ bọn đế quốc hay thế lực phản động nào, bằng bất cứ cách nào xâm phạm nền độc lập và tự do của chúng tôi.”(19) Hoa thì đã kích “bá quyền”, Duẩn thì tố cáo “thế lực phản động”. Rõ ràng hai bên đang nã dạn vào nhau.

Trong những cuộc thăm viếng vừa qua, Duẩn và những nhà lãnh đạo Việt Nam khác lịch sự từ khước cố gắng của Trung Hoa nhằm lôi kéo Việt Nam vào liên minh chống Sô Viết. Trong khi ca ngợi sự giúp đỡ của Trung Hoa, họ không quên cám ơn những “nước anh em xã hội chủ nghĩa” khác, có nghĩa là khối Liên Xô (20). Nhưng trong dịp này, Duẩn làm cho nước chủ nhà thêm kích động không ít bằng cách nêu rõ tên Liên Xô trong lời ca ngợi của ông ta. Bộ mặt lịch sự từ lâu che dấu căng thẳng Việt-Hoa nay đã lộ ra. Khi Lê Duẩn trở lại Hà Nội, đường hướng xung đột mới hiện ra đã rõ ràng.

Tuy nhiên, cam kết của Trung Hoa ủng hộ Kampuchia chỉ xảy ra sau những cuộc họp căng thẳng với Lê Duẩn hồi tháng 11/1977. Khi xem xét kỹ lại chính sách của Trung Hoa đối với Đông Dương, Geng Biao, tổng bí thư quân ủy trung ương đảng Cọng sản Trung Hoa ghi nhận rằng trong các cuộc thương thảo với Duẩn hồi tháng 11/1977 là “sự bất đồng giữa Việt Nam và Kampuchia không còn che dấu được nữa. Những cố gắng của chúng ta nhằm ngăn ngừa sự mâu thuẫn giữa họ với nhau đã trở thành công khai từ khi Kampuchia giải phóng năm 1975, cuối cùng chúng ta thất bại”. Do đó, tới tháng 12, Ủy ban trung ương đảng quyết định giúp đỡ Kampuchia, tăng cường sức mạnh của họ, làm thế nào họ có thể có được thế đứng mới khi các cuộc thương nghị bị thất bại, để có thể giải quyết được vấn đề. (21)

Những ghi nhận của Geng Biao nói trên chỉ rõ cho thấy trong khi dành cảm tình cho Kampuchia, công nhận giá trị của nước này như một phương cách để chống lại Việt Nam tiểu bá, các nhà lãnh đạo Trung Hoa vẫn còn lưu tâm tới giải pháp thương nghị hơn là đối đầu bằng vũ lực. Quan điểm này, hồi tháng Chín/ 1977, được thấy rõ hơn khi Trung Hoa bớt khuyến khích Pol Pot. Có lẽ điều này phản ảnh những rối rắm chính trị ngay trong nội bộ đảng Cọng sản Trung Hoa.

Sự kiện các nhà lãnh đạo có tính thực dụng lại nổi lên chung quanh Đặng Tiểu Bình không chỉ là đã phá chính sách quân sự hóa của Khmer Đỏ; họ miễn cưỡng khi ủng hộ chính sách khiêu khích Việt Nam của Kampuchia.