Cái đuôi chó ve vẫy
Ngày 18 tháng Giêng, tháp tùng bằng một số đông người, gồm cả thứ trưởng Ngoại giao Trung Hoa Hàn Niệm Long và nhiều chuyên viên khác về Đông Nam Á, bà Đặng tới Phnom Pênh. Bà nhận được những lời khoa trương để che dấu nhiều thất bại nghiêm trọng. Từ mùa thu/1977, các nhà lãnh đạo Trung Hoa thúc đẩy Kampuchia mỡ rộng nền tảng chính trị và đưa ông Sihanouk trở lại sinh hoạt quốc gia. Bây giờ, họ lại từ chối lời yêu cầu không cho bà gặp thái tử. Bức thư của con gái thái tử, một vũ nữ biểu diễn trong một đại hý trường ở Paris, Bopha Devi nhờ bà trao cho thân phụ, vẫn chưa trao được.(38) Lời đề nghị của bà với Kampuchia nên thương nghị với Việt Nam để giải quyết sự xung đột cũng bị bác bỏ. Trong một bài diễn văn đọc công khai ở Phnom Pênh, bà Đặng Dĩnh Châu xác quyết một lần nữa sự hỗ trợ của Trung Hoa đối với 5 nguyên tắc sống chung hòa bình như là “những nguyên tắc căn bản, qua đó, tất cả mọi quốc gia trên thế giới, gồm cả những nước xã hội chủ nghĩa, có thể căn cứ vào đó, cố gắng thiết lập các quan hệ giữa các quốc gia với nhau.” (39)
Trong đáp từ, chủ tịch quốc hội nhân dân Kampuchia Nuon Chea bảo đảm với bà Đặng rằng nhân dân Kampuchia “yêu nước một cách hợp lý và vững chắc nhất, không bao giờ khiêu khích hay có ý khiêu khích bất cứ ai. Tuy nhiên, một cách cương quyết, nhân dân Kampuchia sẽ chiến đấu chống lại những hành động cướp đoạt và lật đổ, có mục đích sắp đặt những cuộc đảo chính để lật đổ nước Kasmpuchia Dân chủ, chống lại những hành động có mục đích chiếm dần vùng biên giới, và tất cả những hành động xâm lược và bành trướng từ bên ngoài.” (40)
Coi như việc bác bỏ đề nghị của Trung Hoa thế vẫn chưa đủ, Phnom Pênh thực hiện thêm một bước không cần thiết, hé lộ sự phê phán Trung Hoa trong khi bà Đặng vẫn còn ở Kampuchia. Vào chiều ngày 20 tháng Giêng, ngay sau khi bà Đặng rời thủ đô đi Angkor trên đường trở về nước, đài phát thanh Phnom Pênh đưa ra một bài bình luận nhan đề “Nhân dân Kampuchia cương quyết giữ vững nền Độc lập, Tự chủ, Tự tin, phân biệt rõ Bạn và Thù trên toàn thế giới.”
“Kampuchia là một nước nhỏ và nghèo, dân cư thưa thớt. Tuy nhiên” bài bình luận xác quyết “dưới sự lãnh đạo của đảng Cọng sản Kampuchia, nhân dân rất can đảm.” Trước sự viện trợ đáng kể của Trung Hoa, nhân dân Kapuchia chiến đấu “chính là do cố gắng của chính họ.” “Đối đầu với sự xâm lăng và bành trướng của Việt Nam, Kampuchia cần bạn hữu nhưng chỉ với ai đối xử với Kampuchia trên sự bình đẳng”. Bài bình luận ám chỉ sức ép của các nước bạn mạnh hơn: “Chúng ta phân biệt bạn tốt và bạn xấu. Chúng ta tôn trọng và yêu mến những bạn bè tốt, những ai tôn trọng độc lập, quyền cai trị và toàn vẹn lãnh thổ của Kampuchia, những ai đối xử ngang chân (bình đẵng) với chúng ta. Tuy nhiên, tiêu chuẩn bằng hữu không đặt trên căn bản giúp đỡ vật chất. Tình bạn hữu đó đặt trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, trên tình cảm đoàn kết phù hợp với nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền hạn mỗi nước, dù lớn hay nhỏ, mỗi nước tự điều hành sinh hoạt của nưóc đó vậy...” (41)
Pol Pot xem thường quan điểm hẹp hòi của Bắc Kinh. Mùa Đông năm 1977, Trung Hoa quan tâm đến cái được gọi là chính sách hòa dịu của chính quyền Carter đối với Moscow. Bắc Kinh thấy không nên khiêu khích Moscow bằng cách công khai ủng hộ Pol Pot chống lại Việt Nam. Tuy nhiên khi Kampuchia bày tỏ phản ứng, có thể nguy hại đến liên minh quan trọng nhất của họ ở Đông Nam Á, Bắc Kinh quyết định từ bỏ thắng lợi chiến thuật để bảo trì thuận lợi chiến lược. Có thể những phần tử tả khuynh trong đảng Cọng sản Trung Hoa cũng miễn cưỡng gây áp lực với đồng minh cách mạng vì sự khác biệt chiến thuật.
Những quan tâm khác, chẳng hạn như sự gia tăng Sô-Việt hợp tác, Liên Xô tấn công tuyên truyền vào Trung Hoa vì chính sách ủng hộ của họ cho Kampuchia, và vấn đề thiểu số người Hoa đang cư trú ở Việt Nam -phải tranh luận để từ bỏ thế đứng trung lập của họ, Ủy viên bộ Chính trị Grigory Romanov thực hiện chuyến đi bất thần tới Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh hồi giữa tháng Hai. Sự việc này tiếp nối lời phát biểu của Việt Nam ngày 21 tháng Hai công khai tố cáo Trung Hoa. Một bài bình luận của đài phát thanh Hà Nội tố cáo có một thế lực vô danh đã dùng Kampuchia để chống VIệt Nam. Việc xử dụng những danh từ bịa đặt mới với Trung Hoa, như là “bọn phản động đế quốc và quốc tế đã giúp cho chúng nó (Kampuchia) xây dựng và tập hợp mau chóng hàng chục sư đoàn trang bị pháo binh hạng nặng và máy bay mà trước đó Kampuchia không có. (42)
Vì bị Pol Pot lập mưu hay vì Việt Nam tái hoạch định kế hoạch quân sự, Bắc Kinh vội vàng từ bỏ cố gắng thương thảo với Hà Nội. Trong khi tàu chở hàng của Trung Hoa bắt đầu chuyển xuống cảng Kompong Som đại pháo 130ly tầm xa, súng chống chiến xa, và xe lội nước, Bắc Kinh tự rời bỏ thái độ trung lập. (44) Trong bài diễn văn đọc ngày 26 tháng Hai, thủ tướng Hoa Quốc Phong chính thức khước từ điều họ khởi xướng trước đó là Năm Nguyên tắc Sống chung Hòa bình. Ông ta nói, rõ ràng là với Việt Nam trong trí “Không một nước nào có thể muốn làm tiểu bá ở trong vùng hoặc đặt định ý kiến của mình lên người khác. Dù đối xử ngang chân nhau (bình đẵng) hoặc tìm cách làm bá chủ là tiêu chuẩn hàng đầu, qua đó chúng tôi muốn nói với họ rằng khi nào họ có thể sống theo năm nguyên tắc sống chung hòa bình.” (44)
Đầu tháng Giêng/1978, trong khi chiến tranh tuyên truyền là phương cách được Phnom Pênh và Hà Nội hết lòng theo đuổi, thì các bộ phận của ba sư đoàn trung tâm dưới quyền chỉ huy của ba người chỉ huy dũng cảm Khmer Đỏ - Bộ trưởng Quốc phòng Son Sen, Chỉ huy trưởng khu Trung Tâm Ke Pauk và chỉ huy trưởng Khu Tây Nam Ta Mok bắt đầu di chuyển về phía Đông. Tuy nhiên trước khi các sư đoàn này đụng độ với quân đội Việt Nam thì họ lại đưọc lệnh rút về vị trí cũ.
Để che dấu sự thất bại đầu tiên, Khmer Đỏ tăng cường công tác tuyên truyền, cho rằng việc quân Việt Nam rút lui là “một thắng lợi lịch sử vĩ đại” của Kampuchia. Ngày 6 tháng Giêng được tuyên bố là ngày lịch sử, ngày ghi đậm nét chữ đỏ khi quân đội Việt Nam hùng mạnh đã bị quân Khmer Đỏ cắt làm nhiều mảnh. Để kỷ niệm chiến thắng này, các nhà ăn cộng đồng phục vụ thêm một dĩa cơm cho cán bộ ở Phnom Pênh. Nhiều câu chuyện được thuật trong các buổi họp đông người mô tả các chiến sĩ anh hùng đã diệt hàng chục xe tăng Việt Nam, đập tan chúng nó như đập vở dĩa đựng cơm vậy. (45)
Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau lễ chiến thắng là một đợt giết người mới. Lãnh đạo trung ương lý luận nếu Việt Nam thành công trong việc xâm nhập sâu vào lãnh thổ Kampuchia 25 dặm và hàng ngàn người trốn chạy qua Việt Nam, là do chính quyền khu Đông hoàn toàn phản bội. Chỉ một thời gian ngắn sau cuộc xâm lăng của Việt Nam thì tư lệnh Sư đoàn 4 của Khmer Đỏ bị một nhân viên an ninh địa phưong trung thành với Pol Pot bắn chết. (46)
Bằng giọng điệu xuyên tạc quen thuộc, đài phát thanh Phnom Pênh tuyên bố nhiệm vụ mới bây giờ là bảo vệ “văn phòng và các bộ bằng cách diệt trừ kẻ thù được cài lại bên trong cũng như kẻ thù xâm lược bên ngoài.” Nhân dân phải “bằng mọi giá, loại trừ ra khỏi đầu óc mình tất cả những tàn dư do xã hội đế quốc, phản động, phong kiến, tư bản để lại cũng như tất cả những giai cấp áp bức khác... từ bỏ những quan điểm vô trách nhiệm... từ bỏ mọi thứ tư hữu, quan điểm chiếm hữu của chủ nghĩa cá nhân... và xây dựng đất nước với một tốc độ vô cùng mau lẹ... “(47) Thể hiện chính sách này có nghĩa là làm việc nhiều giờ hơn, ăn ít đi và gia tăng phát giác những phần tử có tư tưởng sai lầm. Khó khăn nhất là tại những tỉnh đã bị Việt Nam xâm nhập.
Một đợt thanh trừng mới và tàn ác - hầu hết nạn nhân là những cán bộ Khmer Đỏ và gia đình bị nghi ngờ - bắt đầu từ tháng Giêng 1978, đạt đến cao điểm trong cuộc chống đối bất thành hồi tháng Năm và sau một cuộc tàn sát lớn lao. Tên đao phủ đứng dầu cuôc thanh trừng đẩm máu này là tên thân cận được Pol Pot tin tưởng nhất, cựu lãnh đạo Cọng Sản Ta Mok, một tên nông dân cao lêu nghêu, hói đầu và mắt sắc. Tên của y trở thành mối kinh hoàng của người dân và binh lính của y là những tên tàn ác nhất. Dưới quyền chỉ huy của y, quân đội khu Tây Nam thỏa thích giết người ở phía Đông Kampuchia, rồi sau đó lan tràn ra cả nước, trở thành một chế độ gia tăng vây hãm dân lành, tiếp tục săn tìm những kẻ thù còn trốn tránh. (48)
Trong khi chế độ Pol Pot thực hiện cuộc thanh trừng ở mọi cấp, xây dựng và tập hợp lực lượng võ trang lại thì các nhà lãnh đạo Việt Nam lo chuẩn bị chiến đấu.