← Quay lại trang sách

Kế hoạch của Hà Nội đối với Kampuchia

Kể từ ngày thống nhất đất nước năm 1975, mỗi mùa Đông các nhà lãnh đạo Việt Nam thường rời Hà Nội lạnh và sương mù để vào miền Nam nắng ấm. Họ đi thăm các nhà máy, các hợp tác xã, các đơn vị quân đội, đem lời chào mừng nhân dịp tết Nguyên đán và nói một cách tự hào về “nhiệm vụ huy hoàng xây dựng xã hội chủ nghĩa”. Những cuộc thăm viếng này cũng dành cho họ những ngày nghỉ ngơi nơi vùng có khí hậu tốt. Tuy nhiên, năm 1978 thì khác hẵn. Miền Nam không chỉ là nơi lui về nghỉ ngơi mà còn là nơi để hoạt động nữa. Cuối tháng Giêng 1978, các ủy viên bộ Chính trị đảng Cọng sản VN họp tại thành phố Hồ Chí Minh để kết thúc một loạt các buổi họp quan trọng. Việc Khmer Đỏ đoạn giao làm cho họ bị kích động. Cuộc xung đột Việt Nam hết sức dấu kín thì nay xuất hiện trên những trang đầu báo chí thế giới, và điều hoàn toàn bất ngờ là Việt Nam bị tố cáo âm mưu nuốt trọn nước láng giềng nhỏ bé. Người anh hùng ngày hôm qua chiến đấu “chống đế quốc” thì ngày hôm nay bị gán cho vai trò là một tiểu đế quốc.

Các lãnh tụ trong bộ Chính trị họp bí mật, xem xét lại kết quả cuộc tấn công Kampuchia hồi tháng 12/1977. Họ đã làm cho bọn Khmer Đỏ thất điên bát đảo, tuy nhiên, không có chứng cớ gì rằng chiến thắng của họ có thể làm nguy hại tới vai trò lãnh đạo của Pol Pot. Thành quả quân sự của Việt Nam không tạo ra động cơ đảo chánh Pol Pot cũng không có gì thách thức tới vai trò lãnh đạo của y. Nhưng Việt Nam đã thành công trong việc kéo về với họ sáu chục ngàn người tỵ nạn Kampuchia. Sau năm 1975, ba trăm ngàn người tỵ nạn Kampuchia, Việt Nam và Trung Hoa đã trốn chạy khỏi Kampuchia tới Việt Nam. Hà Nội giữ im lặng việc này. Nay loạt người tỵ nạn mới này, theo chân quân đội Việt Nam trốn chạy khỏi Kampuchia, trở thành một chứng cớ mới cho thế giới thấy rõ thêm chế độ Pol Pot ở Kampuchia. Cao Ủy Tỵ nạn Liên Hợp Quốc được yêu cầu giúp đỡ cho những người tỵ nạn này.

Tháng Ba năm 1978, tôi đi thăm trại tỵ nạn Bến Sanh ở tỉnh Tây Ninh, trại dành cho những người từ Kampuchia mới trốn sang. “Trại” là một vùng đất bụi khô cằn với những cụm nhà vách tre lợp lá. Cuộc gặp gỡ không được sắp đặt trước với người Kampuchia ở đây cho tôi thấy rõ họ thuộc một loại người tỵ nạn khác biệt. Về phía Việt Nam, trong trí họ không có gì khác hơn là vì nhân đạo mà họ dành cho những người tỵ nạn này một chỗ nương thân. Tôi hỏi một cô giáo trẻ do phía Việt Nam giới thiệu để nói chuyện với báo chí về những điều độc ác đang xảy ra trong xứ Kampuchia: “Cô có muốn về lại Kampuchia không?” Cô ta trả lời bằng một thứ tiếng Pháp không sỏi lắm: “Vâng, khi toàn bộ đất nước tôi đã được giải phóng.” Ai giải phóng? Trước thái độ không được thoải mái của quan chức Việt Nam, cô ta trả lời: “Tại sao? Quân đội Việt Nam.” Có lẽ cô ta không biết việc quân kháng chiến Kampuchia đang được thành lập tại Việt Nam. Tuy nhiên, những người Khmer khác ở trong trại nói riêng với tôi vài ngàn người lính mới, đàn ông và đàn bà từ trại Bến Sanh được đưa đi chiến đấu chống lại chế độ Pol Pot. Do đó, trong khi Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ bắt đầu chương trình nuôi ăn người dân trong trại thì quân đội Việt Nam được giả làm người Khmer. Rõ ràng Việt Nam đã cải tiến ngay cả tư tưởng Mao về chiến tranh nhân dân, trong đó, du kích với dân cũng giống như cá ở trong nước, được dân giúp đỡ.

Trong cuộc họp tháng Giêng, Lê Đức Thọ, “một người trong Bộ Chính trị của Kampuchia cũ”, nắm vai trò lãnh đạo cuộc thảo luận thực hiện những bước mới trong việc đối đầu giữa Việt Nam và Kampuchia.

Những cuộc thảo luận gay gắt với các nhà lãnh đạo Trung Hoa hồi tháng 11/1977 thuyết phục Lê Duẩn rằng “họ” - như bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, có tham gia buổi họp, nói với tôi sau này: - “dùng Pol Pot chống lại chúng tôi.” Quyết định của Khmer Đỏ cắt đứt quan hệ với Việt Nam chỉ hai tuần sau khi một ủy viên bộ Chính trị Trung Hoa thăm viếng Kampuchia, thúc đẩy Việt Nam chuẩn bị can thiệp lớn hơn. Thạch nói: “Trong khi Pol Pot cắt đứt quan hệ ngoại giao với chúng tôi, chúng tôi biết Trung Hoa đã chuẩn bị chiến tranh. Vì vậy, chúng tôi phải xem xét hết mọi mặt.” “Mọi mặt” đó là sự chuẩn bị quân sự và quan hệ ngoại giao “rách nát” với Hoa Kỳ và các nước không Cọng sản ở Đông Nam Á. Đã đến lúc Việt Nam phối hợp áp lực quân sự và công khai kêu gọi nhân dân nổi dậy chống Kampuchia. Việc chuẩn bị đó bắt đầu bằng cách thành lập lực lượng kháng chiến Khmer trong khi Việt Nam cố gắng tái lập quan hệ ngoại giao với Pol Pot.

Hai tuần sau, Việt Nam đề nghị một bản dự thảo hiệp nghị. Ngày 5 tháng Hai/1978, đài phát thanh Hà Nội đề nghị ba điểm với Kampuchia, kêu gọi hai bên cùng rút lui xa đường biên giới khoảng ba dặm, ký một thỏa ước bất tương xâm có quốc tế giám sát. Một quan chức Việt Nam sau này nói thêm với tôi: “Chúng tôi biết Khmer Đỏ chẳng bao giờ chấp thuận đề nghị đó, nhưng ít ra chúng tôi cũng có thể đổ tội cho họ là đã từ chối thương nghị.” Đề nghị của Việt Nam được phổ biến một cách rộng rãi và Liên Xô lên tiếng ủng hộ đề nghị này cho rằng đó là đề nghị “hợp lý nhất.” Y như Việt Nam muốn, Phnom Pênh tỏ vẻ khinh miệt đề nghị này, cho đó là cố ý đe dọa Kampuchia và làm thay đổi sai lạc nhãn quan của thế giới.

Cuối tháng Giêng/ 1978, tướng Grigoriyevich Pavlovsky, chỉ huy trưởng lực-lượng lục quân Liên Xô đến Lào trên một chuyến bay đặc biệt để “thăm viếng thân hữu”. Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp bay tới Vieng Say, ở phía bắc Lào, bí mật họp với Pavpovsky để xem xét lại tình hình Kampuchia. Nhiều năm sau, một quan chức Việt Nam kể lại với tôi, lời khuyến cáo của tướng Pavlovsky là “làm như ở Tiệp khắc.” Trung Hoa không đủ sức để tới Kampuchia giúp đỡ nước này. Việt Nam cứ cho nhiều đoàn chiến xa đánh thẳng vào Phnom Pênh và lật đổ chế độ Pol Pot, giống như phương cách trước đây quân đội Liên Xô lật đổ Alexander Dubcek ở Prague năm 1968. Giáp tránh không làm theo đề nghị đó. Quan chức nói trên nói với tôi Việt Nam giải quyết vấn đề “theo chính phương cách thích hợp của họ.”