← Quay lại trang sách

Lời đồn đãi chiến tranh

Đầu năm 1978, tòa đại sứ Trung Hoa tại Hà Nội bắt đầu cấp chiếu khán cho một số Hoa kiều. Tuy nhiên, động lực chính phát xuất từ dư luận cho rằng sẽ có chiến tranh giữa Trung Hoa và Việt Nam. Ban đêm, nhiều truyền đơn thả trước cửa nhà Hoa Kiều, yêu cầu họ trở về Trung Hoa để xây dựng đất nước hoặc bị đe dọa trừng phạt nếu còn tiếp tục ở Việt Nam. Ai ở đằng sau dư luận này? Hà Nội thì nói rằng “đó là những phần tử xấu trong số người Hoa”. Bắc Kinh thì tố cáo đó là hành động của Công an Việt Nam. Mục tiêu chiến dịch này thì không rõ. Charles Benoit, một học giả Mỹ nói được cả tiếng Hoa và tiếng Việt, phỏng vấn nhiều người trốn khỏi Bắc Việt Nam kết luận rằng “động lực chính khiến Hoa kiều trốn khỏi BắcViệt Nam là vì họ sợ rồi sẽ có chiến tranh giữa Trung Hoa và Việt Nam, vấn đề này liên hệ đến quốc tịch của họ. Họ sợ mất quốc tịch, khả năng của họ giúp họ giữ được một đời sống cơ bản, những ưu đãi bị giảm bớt dần và họ nghĩ rằng họ sẽ không được thụ hưởng mãi như là một thường trú nhân ngoại quốc.” (21)

Dù là gì ở đằng sau những lời đồn đãi ấy, chắc chắn Việt Nam chẳng làm gì mạnh để ngăn chặn làn sóng người ra đi. Thiếu phương tiện vận chuyển, quan trọng hơn nữa, việc hạn chế người dân di chuyển vì tình hình an ninh, và lại ở xa biên giới, việc ra đi của một số đông người như vậy không thể đến biên giới được nếu không có sự đồng lõa của chính quyền. Dù thế nào, Hà Nội giảm bớt thái độ của họ một cách rõ rệt trong ba tháng đầu khi Trung Hoa gia tăng công khai tấn công Việt Nam. Ngày 30 tháng Năm, Trung Hoa công bố chấm dứt chương trình viện trợ phụ trội 51 cho Việt Nam, nâng tổng số chương trình bị hủy lên tới 72, một hành động không những chống lại nguyên tắc Trung Hoa đã từng tuyên bố là không dùng viện trợ như một đông lực để chống lại bất cứ một quốc gia nào và cũng cho thấy trong vòng một tháng, họ đã dùng hết phương tiện truyền thông, một phương cách bất bạo động để gây sức ép với Việt Nam.

Việc chấm dứt viện trợ gây hậu quả nghiêm trọng cho kinh tế rách nát Việt Nam. Tuy nhiên, ngay tức thì, Hà Nội không còn ngần ngại gì nữa tham gia khối Comecon. Trong cuộc họp cao cấp bí mật ở Moscow hồi mùa Xuân năm 1977, Việt Nam thỏa thuận trên nguyên tắc sẽ tham gia khối Comecon vào “thời gian thích hợp.” Hà Nội không muốn khiêu khích Trung Hoa bằng cách tham gia vào một tổ chức do Liên Xô đứng đầu bao lâu Bắc Kinh còn duy trì quan hệ bình thường với Việt Nam. (23) Giờ đây, quyết dịnh của Trung Hoa làm cho Việt Nam thấy tự do, chính thức tham gia Comecon ngày 28 tháng Sáu. Mai mỉa thay, bước đầu thắng lợi trong cuộc đấu tranh Hoa-Việt là làm cho Hà Nội tiến tới gần Moscow hơn.

Ngày 26 tháng Năm, Bắc Kinh leo thang xung đột bằng cách công bố gởi hai chiếc tàu thủy tới Việt Nam để “đón về nước những người Hoa đang bị ngược đãi.” Hà Nội lên án quyết định đơn phương của Trung Hoa là “ngoại giao pháo hạm.” Một nhà bình luận ở Hà nội phê bình: “Đó là cao điểm của sự láo xược. Biển Nam Hải không phải là cái hồ của Trung Hoa, Hải phòng và Hồ Chí Minh không phải là các cảng của Trung Hoa mà tàu bè Trung Hoa muốn ra vào lúc nào cũng được.” (24)

Hà Nội cũng không bỏ lỡ cơ hội tố cáo sự mâu thuẫn giữa lời yêu cầu của Bắc Kinh bảo vệ kiều dân của họ và chính sách của Trung Hoa đối với Kampuchia, nơi hàng ngàn Hoa Kiều đang chịu khổ nạn dưới bàn tay Khmer Đỏ. Một bài phát thanh của đài Hà Nội mai mỉa, nếu Trung Hoa muốn hồi hương những “nạn nhân Trung Hoa” thì “hãy đưa tàu tới đón kiều dân Trung Hoa ở Kampuchia nhanh bao nhiêu tốt bấy nhiêu.” (25)

Sứ mạng đi cứu Hoa kiều ở Việt Nam thất bại ngay từ đầu. Trung Hoa nhấn mạnh rằng chỉ hồi hương những “nạn nhân Trung Hoa” có nghĩa là Việt Nam không những chỉ thừa nhận có ngược đãi mà còn yêu cầu không còn người Hoa nào ở Việt Nam, -người Hoa, có nghĩa là người Việt có gốc gác Trung Hoa. Việt Nam lợi dụng ngay cơ hội này để đưa ra 22 địa điểm đón người Hoa. Trung Hoa nói rằng họ có thể đón hết tất cả Hoa kiều, những ai muốn rời Việt Nam sau khi đơn xin của họ được cứu xét và Trung Hoa cấp chiếu khán cho họ. Thực ra, Bắc Kinh không bao giờ có thể đón về một triệu hai trăm ngàn người công dân Việt Nam được xem có gốc Trung Hoa. Trung Hoa cũng tự bày tỏ cho thấy họ đã can thiệp vào nội bộ Việt Nam.

Có điều hoàn toàn nghi ngờ là Trung Hoa muốn Việt Nam thừa nhận có ngược đãi Hoa kiều bằng cách cho phép họ lên tàu về nước. Thật ra, hai chiếc tàu này chỉ chở khoảng 2,200 người, chỉ là sự tượng trưng cho hành động của Trung Hoa mà thôi. Hành động đó chỉ nhằm để gây khó khăn cho Hà Nội và chứng tỏ cho Hoa kiều thấy mối quan tâm sâu sắc của họ đối với số phận người Hoa.

Sau sáu tuần đấu trò ngoại giao về phương pháp đón người về nước với những chi tiết việc bốc người đi, cùng với chiến dịch tuyên truyền gay gắt của cả hai bên, tới tháng Bảy, mọi việc đều bị bỏ lững. Một toán tiên phong chuẩn bị để thành lập tòa lãnh sự ở thành phố Hồ Chí Minh bị cầm chân ở Hà Nội ba tháng, trước khi quay trở về Bắc Kinh. Hà Nội cho rằng vì lý do an ninh, toán này không được phép vào thành phố Hồ Chí Minh. Hà Nội nói có thể mở cửa tòa lãnh sự vào quí Ba năm 1978, sau hạn kỳ triệt thoái hết người Việt gốc Hoa ra khỏi Việt Nam. Sau khi chờ ngoài khơi biển Việt Nam sáu tuần lễ, trong lúc gió mùa thổi dữ dội, hai chiếc tàu của Trung Hoa lặng lẽ trở về hải cảng Hangpu với nhiều thủy thủ bị bệnh, chén bát bị vỡ. Chẳng bao lâu sau, đối đầu với tình trạng hàng vạn người đến Trung Hoa bằng đường bộ, -rõ ràng là do Hà Nội thúc đẩy từ hồi tháng Năm, Bắc Kinh phải dời câu “chào mừng kiều dân trở về” tới nhiều điểm trên biên giới.

Toàn bộ tiến trình đón người trở về bằng tàu cho thấy việc đó gây khó khăn cho Bắc Kinh và vận may tuyên truyền cho Hà Nội. Hà Nội nhắm hướng tuyên truyền vào các nước Đông Nam Á, nói rằng “Sự tráo trở của Trung Hoa đối với Việt Nam khiến chính phủ các nước vùng Đông Nam Á có lý do để lo lắng. Nếu họ không đề cao cảnh giác, thì họ sẽ mất hết an toàn vốn liếng tài sản. Quả thật Trung Hoa có quan tâm đến điều đó.” (26) Đại sứ các nước trong Hiệp Hội Đông Nam Á đều được thông báo đặc biệt, trấn an rằng phản ứng của Trung Hoa đối với sự đối xử của Việt Nam với Hoa kiều là “trường hợp đặc biệt” vì hành động của Hà Nội là một phần trong âm mưu của Liên Xô.

Phản ứng sai lạc của Trung Hoa gây cho kiều dân Trung Hoa tại Việt Nam gặp nhiều nguy cơ hơn. Những lời tuyên bố nẩy lửa của họ như “Đồng bào chúng ta ở Việt Nam hy vọng ngày này để được đón về quê mẹ”. (27) đã tạo ra nhiều hy vọng hão huyền, thúc đẩy hàng ngàn Hoa kiều ở phía Bắc chạy lên biên giới Hoa-Việt và hàng trăm ngàn người ở Chợ Lớn công khai xin về nước. Trong tháng Sáu, văn phòng cho ghi danh người muốn trở về Trung Hoa mở tại thành phố Hồ Chí Minh tưởng như tràn ngập với ba chục ngàn đơn trong vòng một tuần lễ.

Hầu hết những Hoa kiều muốn trở về Trung Hoa cũng tìm cách di cư tới một nước khác. Nhưng trong con mắt Việt Nam, họ là người đứng về phía kẻ thù. Tỏ ý muốn trở về với Trung Hoa Cọng sản, nơi tình trạng buôn bán tư nhân không tốt gì hơn ở Việt Nam, làm gia tăng sự quấy rối ở Việt Nam như một đạo quân thứ năm. Thay vì buộc các thương nhân Chợ Lớn làm nông nghiệp ở các vùng Kinh Tế Mới, như họ đã ép buộc các nhóm chủng tộc khác không có công ăn việc làm, chính quyền quyết định loại trừ tất cả người này và đó cũng là điều lợi cho họ. Sự kiện này là bước khởi đầu của một trong những cuộc di dân vĩ đại và bi thảm nhất thời hậu chiến. Sau khi hai chiếc tàu thủy quay mũi về Trung Hoa và biên giới Hoa Việt đóng lại, Hà Nội đưa ra một chính sách di dân bóc lột trắng trợn. Một thương gia Chợ Lớn giải thích: “Vì chúng tôi từ chối đi về quê sản xuất, chẳng bao lâu chúng tôi cũng phải trốn đi, chính quyền quyết định gom vàng của chúng tôi lại rồi cho chúng tôi đi.” (29)

Mùa hè năm 1978, Công An Việt Nam thành lập một số văn phòng tại các thành phố gần bờ biển ở miền Nam để đóng tàu và cho người Hoa (hay Việt Nam giả dạng người Hoa) rời Việt Nam sau khi họ đóng một phí khoản nặng bằng vàng và đôla. (30) Các nhà ngoại giao Tây phương ở Hà Nội gán cho sự việc này cái tên là “Công Ty Du Lịch cái bô sét” (Rust Bucket Tours Inc.), có trách nhiệm làm cho gần một phần tư triệu người, trong vòng hai năm, chạy trốn khỏi Việt Nam. Khoảng ba đến bốn chục ngàn trong số thuyền nhân này đả bỏ mạng ngoài biển (41)