← Quay lại trang sách

Hà Nội quay tròn theo đuôi rồng

Khi bộ Chính trị đảng Cọng sản Việt Nam họp tại thành phố Hồ Chí Minh giữa tháng Hai năm 1978, họ nghiên cứu chính sách mới của Trung Hoa về vấn đề người Hoa ở hải ngoại. Trong thời gian có cuộc Cách mạng Văn hóa, Ủy ban Quan hệ Hoa kiều Hải ngoại như ở trong địa ngục và chính sách của họ đối với Hoa Kiều rất lộn xộn. Tuy nhiên, từ đầu năm 1977, cùng một thời gian khi Việt Nam “thanh lọc” vùng biên giới sát Trung Hoa của họ, Bắc Kinh bắt đầu chứng tỏ cho thấy họ lưu tâm đến tài năng và vốn liếng của người Hoa ở hải ngoại. Ngày 4 tháng Giêng/1978, một bài báo của Liao Chengzhi trên tờ “Nhân dân Nhựt báo” của Trung Hoa hé lộ cho thấy chính sách mới của Bắc Kinh, gọi Hoa kiều là “một phần của đất nước Trung Hoa.... mà số phận kết liên gần gủi với quê mẹ.” Chủ tịch Ủy ban Quan hệ Hoa kiều Hải ngoại -ban này mới được củng cố-, thúc đẩy Hoa kiều thành lập “Mật trận Đoàn kết Yêu nước Hải ngoại” chống lại “bá quyền”. Hoa kiều không những được ưu ái như thế mà còn được gọi là “bạn hữu của quốc gia ở hải ngoại, hậu duệ của người Hoa.” Liao còn tuyên bố thêm là sẽ bảo vệ quyền hạn của Hoa kiều, những ai còn giữ quốc tịch Trung Hoa. Trung Hoa cũng “hoan nghênh và sắp xếp thích đáng cho những người muốn trở về để góp phần xây dựng đất nước hoặc cư ngụ.” Những ai giữ quốc tịch ở nước đang định cư thì được xem là “quyến thuộc và bạn hữu.” (15)

Câu nói nổi bật của Liao là dù có quốc tịch nào đi nữa, tất cả những người có nguồn gốc Trung Hoa đều có quyền tham gia việc chống Moscow và bè lũ, và được xem là bạn hữu của Bắc Kinh. Từ đầu năm 1978, tòa đại sứ Trung Hoa ở Hà Nội giải thích chính sách mới cho cộng đồng người Hoa và bắt đầu lặng lẽ cấp phát thông hành cho Hoa kiều ở một vài thành phố giàu có, những người này muốn đóng cửa tiệm và nhà hàng để trở về Trung Hoa. Đối đầu với hành động này của Bắc Kinh càng lúc càng gia tăng trong cộng đồng người Hoa ở Việt Nam và việc họ dính líu càng lúc càng sâu ở Kampuchia, Hà Nội kết luận rằng đã đến lúc có hành động cương quyết để giải quyết cả hai vấn đề kinh tế và an ninh tại Chợ Lớn cùng một lúc. (16)

Tuy nhiên, một cách lạ lùng, hình như Việt Nam không nghĩ rằng Trung Hoa sẽ không công khai lên án hành động chống Trung Hoa của Việt Nam. Hồi cuối tháng Ba, một nhà ngoại giao Việt Nam tiên đoán “Trung Hoa không làm thiệt hại uy danh quốc tế của họ bằng cách công khai tấn công chúng tôi. Chúng tôi tiếp tục đấm nhau dưới gầm bàn.” Vừa nói ông vừa đưa tay lên trời.

Hà Nội tính toán rằng Bắc Kinh sẽ không gây nguy hiểm cho những cố gắng của Việt Nam nhằm ve vãn các nước không Cọng sản ở Đông Nam Á bằng cách công khai thiết lập quan hệ với người Hoa ở hải ngoại và đem lại cho những nước ở trong vùng nỗi sợ hãi người Hoa sẽ trở thành đạo quân thứ năm. Việt Nam cũng hy vọng Trung Hoa sẽ không công khai chống lại hành động của chính quyền Hà Nội ở Chợ Lớn vì đó là hành động đầu tiên chống tư bản. Rõ ràng với quan điểm loại trừ bất cứ một sự phê phán nào của Trung Hoa, ngày 24 tháng Ba, Việt Nam tuyên bố “Chính sách thủ tiêu thương nghiệp tư sản sẽ đem lại đoàn kết tại thành phố và tất cả thành thị miền Nam, không phân biệt quốc tịch và tôn giáo.” Họ cũng cảnh cáo nhân dân: “vẫn còn phải thận trọng chống lại âm mưu phản động (Bắc Kinh) xuyên tạc chính sách này và chia rẽ nhân dân lao động.” (18)

Việt Nam tính sai rất lớn. Bắc Kinh coi hành động của Việt Nam ở Chợ Lớn như là một sự thách thức công khai đối với chính sách kiều dân của Trung Hoa mà thật ra, đối với Bắc Kinh, họ cho là sức mạnh của họ ở trong vùng. Bắc Kinh thất bại không làm được gì để bảo vệ Hoa kiều ở Việt Nam, đặc biệt sau khi họ tuyên bố chính sách mới về kiều dân của họ, hứa hẹn có phản ứng nghiêm trọng để bảo vệ uy danh của họ trước 15 triệu Hoa kiều ở vùng Đông Nam Á. Sự kiện Trung Hoa không có phản ứng gì trở thành một điều khích lệ cho những nhà chính trị ở trong vùng có khuynh hướng chống Trung Hoa cũng như có tinh thần quốc gia cực đoan. Họ sẽ có những hành động tương tự như Việt Nam vậy.

Bốn tháng sau sự kiện Chợ Lớn, Bắc Kinh vẫn im lặng. Tuy nhiên đằng sau sự im lặng đó là sự căng thẳng trong hàng ngàn người Hoa ở phía Bắc, tạo thành làn sóng tỵ nạn đổ dồn sang Trung Hoa và thêm nhiều thương gia Hoa Kiều ở miền Nam đi vùng Kinh Tế Mới. Thời gian cũng có điều mai mĩa. Bắc Kinh chọn ngày kỷ niệm lần thứ ba chấm dứt chiến tranh Việt Nam để bắn phát súng đầu xuyên suốt vào cây cung của Việt Nam, báo hiệu khởi đầu một cuộc chiến tranh mới. Trong một tiệc trà tiếp đãi du khách Hoa kiều vào ngày 30 tháng Tư/ 1978, Liao Chengzhi tuyên bố một số lớn Hoa kiều ở Việt Nam đã “bất thần trở về Trung Hoa.” Chẳng có gì kiểu cách, ông ta nhắc nhở rằng “Trung Hoa quan tâm và theo dõi sát sao tình hình này.”

Mười hai ngày sau, Trung Hoa gia tăng áp lực với Hà Nội bằng cách lặng lẽ nói với nước này là họ đình hoãn 21 hạng mục công trình do Trung Hoa giúp đỡ, nói là để nhằm “chuyển ngân khoản và vật liệu của công trình để lo cho đời sống của Hoa kiều vừa bị xua đuổi khỏi Việt Nam.” Đó cũng là một kịch bản buồn cười được lập lại vì hồi năm 1960 Moscow cũng bất thần đình hoãn các chương trình viện trợ của họ cho Trung Hoa để bày tỏ sự giận dữ với Bắc Kinh. Trung Hoa tố cáo mạnh mẽ để có thể cuối cùng đoạn tuyệt với Hà Nội. Tuy nhiên, Bắc Kinh chờ đến khi con nguời chống Liên Xô ồn ào Zbigniew Brzezinsky, cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Hoa Kỳ rời khỏi Trung Hoa, họ mới mở cuộc tấn công Việt Nam đầu tiên. Ngày 24 tháng Năm, văn phòng Kiều dân Trung Hoa tố cáo Việt Nam đày ải, ngược đãi Hoa kiều ở Việt Nam và xua đuổi họ về lại Trung Hoa. Bản tuyên bố đó nói rằng nhiều người bị ngược đãi, cướp bóc và ngay cả bị đánh đập tàn nhẫn. “Họ chẳng còn gì ngoài bộ quần áo mặc trong mình khi họ tới lãnh thổ Trung Hoa.” Bản tuyên bố cũng tố cáo Việt Nam “bắt giữ hàng loạt kiều dân, làm bị thương và giết chết nhiều người ở thành phố Hồ Chí Minh”. Bắc Kinh cảnh cáo Hà Nội phải chịu trách nhiệm về hậu quả của những hành động “độc đoán, tàn bạo và phi pháp của họ.” (20)

Khi Trung Hoa đầu tiên công khai tố cáo vấn đề hàng loạt người Hoa rời khỏi Việt Nam thì có khoảng 17 ngàn người sẵn sàng vượt biên giới. Cuộc di cư này bắt đầu như thế nào? Tại sao Trung Hoa mở rộng cửa biên giới. Tại sao họ phải chờ đến lâu như thế mới công khai hoá? Chẳng bao giờ có thể biết toàn bộ câu chuyện như thế nào. Nó được che dấu bằng những lời tố cáo mạnh mẽ và gay gắt, biến bạn thành thù. Trung Hoa tố cáo Hà Nội đày đọa và ngược đãi Hoa Kiều; nghe nói là cưỡng bức họ tới biên giới rồi xua đuổi ra khỏi nước. Hà Nội tố cáo ngược lại Trung Hoa xúi dục Hoa Kiều ra đi bằng cách ngụy tạo những lời đồn đãi độc ác để phá vở kinh tế Việt Nam và dùng áp lực cho mưu đồ chính trị. Tới giữa tháng Sáu thì số người di cư này lên tới 133 ngàn mà chẳng có lời giải thích đầy đủ nào về một cuộc di cư vĩ đại như thế. Cuộc di cư ở phía Bắc, mặc dù bắt đầu từ tháng Ba -chẳng liên hệ trực tiếp gì việc đánh tư sản ở Chợ Lớn. Nó có liên hệ đến một số thương gia, nhưng phần đông là công nhân, thợ mõ và ngư dân. Thật ra, ở cảng Hải Phòng, - cảng lớn ở phía Bắc mở ra với thế giới- các mỏ than và hoạt động đánh cá bị ngưng trệ vì Hoa Kiều bỏ đi, ám chỉ rằng có bàn tay Hà Nội đằng sau cuộc di cư dó. Tuy nhiên cũng không phải vì mười ngàn ngư dân rách nát và công nhân Hoa kiều thiếu tay nghề mà Trung Hoa khuyến khích họ trở về đất mẹ để góp phần vào “Bốn Hiện Đại.” Có chứng cớ cho thấy dù cả hai phía Hà Nội và Bắc Kinh một bên kéo, bên đẩy kiều dân Trung Hoa, chẳng bao lâu cuộc di cư bùng lên là do chính động lực của nó, đạt tới một số lượng chẳng ích cho ai cả. Như chúng ta đã thấy, ban đầu Việt Nam kiểm tra dân số vùng biên giới, cho rằng vấn đề quốc tịch Trung Hoa là một phần trong biện pháp gìn giữ an ninh. Rồi đến khi việc đánh tư sản ở Chợ Lớn xảy ra, Hà Nội bắt đầu gây khó khăn cho một nhóm nhỏ thương gia và nhà hàng, tố cáo rằng họ làm giàu bất chính và trốn thuế. Tháng Hai, Hà Nội tổ chức hai buổi lễ kỷ niệm bất thường: Chiến thắng của hai vị anh hùng lịch sử, đánh bại Trung Hoa xâm lược. Đó là Lê Lợi và Trần Hưng Đạo. Những buổi lễ như thế không làm cho Hoa kiều an tâm.