Thân mình Kampuchia, trí óc Việt Nam
Tình hình khu Đông liên quan phức tạp đến số phận của So Phim. Ông này là một nông dân mập lùn, mặt tròn, lãnh đạo phong trào Cọng sản ở Kampuchia hơn một phần tư thế kỷ. Năm 1954, ông là một trong hàng ngàn người Cọng sản Khmer tập kết ở Hà Nội. Trong vòng hai năm, ông ta bí mật trở lại Kampuchia để tổ chức đảng. Năm 1963, ông là thành viên gốc nông dân độc nhất trong ủy ban năm người của đảng (tương đương với bộ chính trị) do Pol Pot, một trí thức chống Việt Nam lãnh đạo. Trong những năm du kích chống Lon Nol, ông ta vươn lên thành phó tư lệnh lực lượng Khmer Đỏ. Trong suốt hai thập niên 1960-70, ông ta vẫn duy trì mối quan hệ gần gủi với Việt Nam Cọng sản, dù có lúc đụng chạm. Ảnh hưởng của ông ở khu Đông lớn đến nỗi sau năm 1975, ông là người độc nhất trong bộ chính trị vẫn còn nắm giữ khu vực này. Ông ta được tin tưởng vì đã tạo ra sự thịnh vượng cho khu Đông, nhưng các học giả Kampuchia đã phân tích vai trò của ông trong quá trình sụp độ cuối cùng ở đây.
Chúng ta thấy sự thất bại của quân đội khu Đông, không ngăn chận nổi sức tiến công của quân đội Việt Nam hồi tháng Chạp năm 1977, đưa tới những cuộc thanh trừng mới. Trong sự hỗn loạn sau khi quân đội Việt Nam rút lui, các đơn vị địa phương thất tán trước khi Việt Nam tấn công, về sau lại liên hệ đến cuộc đấu đá với quân đội trung ương mới gởi tới, tạo ra nhiều mối nghi ngờ phức tạp. Từng người một, các cán bộ quân sự cấp giữa của lực lượng khu Đông cũng như các đơn vị trung ương được gọi về Phnom Pênh để “họp”. Họ đi không bao giờ về. Tài liệu ở nhà tù Toul Sleng cho biết kể từ 19 tháng Tư/1978 số cán bộ quân sự khu Đông bị giam ở đây là 409 người, gấp mười lần số cán bộ Tây Bắc cùng chung số phận. Con số lớn thứ hai là không có từ khu nào cả. Toàn bộ 28 người chuyển đến ngày hôm sau cũng là từ khu Đông. Cấp chỉ huy của hai sư đoàn trung ương đóng tại phía Đông cũng bị bắt hồi tháng Tư. Một trong số họ là anh (em) của Heng Samrin, Heng That, tư lệnh sư đoàn 290.
Ngày 10 tháng Năm đài phát thanh Phnom Pênh đặc biệt kêu gọi tiêu diệt dân Việt Nam và “thanh lọc” hàng ngũ chính họ. “Tính theo số lượng, một người của chúng ta giết ba chục người Việt..... có nghĩa là chúng ta mất một, họ mất ba chục. Chúng ta không cần tới 8 triệu dân (dân số phỏng chừng Kampuchia thời kỳ đó). Chúng ta chỉ cần hai triệu binh lính để đè bẹp năm chục triệu dân Việt Nam. Chúng ta cũng còn lại 6 triệu dân.” Thực hiện tham vọng như vậy, họ hoàn toàn trong cậy vào quân đội, đảng và nhân dân. Bài phát thanh chấm dứt với lời kêu gọi: “Chúng ta phải thanh lọc hàng ngũ quân sự, đảng và số đông dân chúng để tiếp tục chống lại kẻ thù, bảo vệ lãnh thổ và dân tộc Kampuchia.” (37)
Vì là một chỉ huy cao cấp của đảng, có phải Phim ủng hộ chính sách tàn bạo và các cuộc thanh trừng này? Ben Kiernan, một học giả người Úc nói được tiếng Miên, ông này trãi qua một thời gian dài nghiên cứu lịch sử Kampuchia hiện đại, tin rằng lúc đó So Phim đang bị bệnh, và không biết việc bắt giữ. Khi ông ta hay tin các cấp chỉ huy của hai sư đoàn trung ương 280 và 290 đóng tại khu Đông bị bắt bèn nổi giận. Ông ta “yêu cầu mọi người quan sát bên ngoài và cẩn thận.” Theo Kiernan, So Phim đau đớn vì ông ta là một đảng viên, và ông ta tin rằng những việc bắt giữ, giết người này không phản ảnh tính chất cách mạng. Khi những cuộc thanh trừng mở ra, ông trở nên trì độn và không còn quyền lực để chống lại được. Tuy nhiên, Stephen Heder, tin rằng đó là hậu quả do việc Việt Nam tấn công hồi tháng 12. So Phim chống lại việc thanh trừng cán bộ của Pol Pot. Ở Kampuchia Dân chủ, chỉ có một con đường để lãnh đạo tồn tại là bằng cách đổ lỗi sự thất bại của họ cho những người thân cận, gọi họ là phản bội. Heder nói: “So Phim làm đúng như thế. Tuy nhiên ông ta không biết rằng chính ông ta bị nghi ngờ vì đã làm cho khu Đông phát đạt và phát triễn lực lượng địa phương.” (38)
Dù Phim là người hảo tâm nhưng lại là một lãnh tụ ngây thơ hoặc là kẻ tòng phạm giết người của Pol Pot, mà thời gian thì không còn. Những cố gắng chậm trễ của ông ta để thoát khỏi cái thòng lòng xiết cổ ông chỉ là đánh dấu sự bắt đầu một cuộc nội chiến đạt tới cao điểm khi Việt Nam can thiệp hoàn hoàn vào nội tình Kampuchia.
Cuối tháng Năm 1978, Ke Pauk, chỉ huy trưỏng khu Trung ương được Pol Pot phái tới khu Đông để tổ chức cuộc thanh trừng. Ông này gởi một “thư mời” Phim đến họp. Phim hiểu rất rõ ý nghĩa của bức thư mời đó là gì. Ông ta gởi ba tay thân cận của ông, trong đó gồm cả một bí thư cao cấp của đảng đi điều tra xem mục đích cuộc họp đó là gì. Ba người này không bao giờ trở về.
Ngày 24 tháng Năm, một lữ đoàn thiết giáp từ Phnom Pênh tới tăng cường quân đội Trung ương, bao vây bộ chỉ huy khu Đông ở thành phố Suong, cách biên giới Việt Nam hai chục dặm. Một số viên chức đảng bị bắt và bị đưa đi hành quyết. Nhưng Phim vẫn còn lên xe Jeep cùng vợ, con, và cận vệ thoát ra khỏi vòng vây, hy vọng tới Phnom Pênh. Theo Kiernan, Phim nói với cộng sự viên của ông ta rằng Pauk và bộ trưởng Quốc phòng Son Sen là những tên phản bội, ông ta sẽ yêu cầu lãnh đạo bắt giữ bọn chúng. Theo Heder thì Phim còn nghĩ đơn giản rằng quân đội Trung ương làm việc vượt quá quyền hạn mà thôi. Do đó, ông ta ra lệnh cho quân khu Đông chống lại quân Trung ương cho đến khi ông ta có thể yêu cầu Pol Pot ngăn cản quân của Pauk và Son Sen lại. Dần dần, ông ta hiểu rằng dưới con mắt của Pol Pot, ông ta đã trở thành tên phản bội hàng đầu ở khu Đông. Từ tháng Năm 1978, Pol Pot được báo cáo rằng So Phim là tên hoạt động bí mật cho “Đảng Lao Động Kampuchia” do Việt Nam và CIA dựng nên để cầm quyền ở Kampuchia. (39)
Ông ta ngừng xe lại bên bờ sông Mekông để chờ tin tức Pol Pot. (Ông ta đã gởi người tới gặp Pol Pot trước khi ông ta vào thủ đô). Ngày 2 tháng Sáu, hai chiếc phà chở đầy lính đến “đón chào” Phim. Phim vẫn còn tự tin nên không biết cách hộ tống đó có nghĩa là thế nào. Cuối cùng, khi biết ra thì ông ta bèn rút súng và tự bắn vào ngực.
Cuộc thanh trừng ngày 24 tháng Năm bắt đầu một chương đẫm máu nhất trong lịch sử đẫm máu của nước Kampuchia Dân chủ. Rồi từ đó về sau, những cuộc thanh trừng cán bộ chính trị được tổ chức một cách bí mật. Các nạn nhân được gọi đi dự các buổi “tư vấn thường lệ”, “các khóa học tập”, “hội nghị bất thường” hay “một nhiệm vụ” mới ngoài phạm vi làng rồi cuối được chuyển giao cho Công An Quốc Gia. Trong khoảng thời gian bốn năm, hai mươi ngàn người “được mời” như thế, bị tra khảo để thú nhận tội lỗi rồi bị giết tại nhà tù Toul Sleng. Những việc này làm cho người ta thấy rằng công việc của đảng đang cai trị và sự cô lập hoàn toàn giữa khu này với khu khác, những biện pháp làm cho người ta thấy ngấm ngầm sợ hãi và lòng họ không ổn định nhưng chưa phải kinh hoàng. Kiểm soát đảng bộ khu tại Suong bằng các đơn vị thiết giáp, trong trí Pol Pot không có gì nghi ngờ là các cán bộ còn sống chẳng có ích lợi gì cho đảng. Ngày hôm sau, cán bộ cấp tiểu đoàn và trung đoàn của sư đoàn 4 và 5 được gọi về họp. Khi tới nơi, họ bị tước võ khí và bị trói lại. Họ được đưa lên xe tải và đưa ra ngoài ruộng, bị bắn bằng súng máy. Chỉ có một người, thoát chết một cách lạ lùng, sau đó trốn qua Việt Nam và kể lại câu chuyện này. (41)
Tư lệnh Sư Đoàn 4 Heng Samring, thấy anh (em) ông ta biến mất, nên không chờ tới phiên mình. Khoảng với một ngàn binh lính trung thành với ông, họ trốn vào rừng. Một cán bộ trung cấp, Tea Sabun, hướng dẫn một toán dân quân địa phương, xâm nhập kho võ khí khu Đông để lấy súng và vũ khí chống chiến xa. Họ giao chiến với quân đội Trung ương gần ba tuần lễ trước khi kéo vào rừng. Tư lệnh các khu khác như Chea Sim, Mat Ly, Men Chhan, Ouch Bun Choeun, và Sim Kar cũng trốn vào rừng với khoảng ba ngàn tay súng và ba chục ngàn dân thường. Sau tháng Năm, trong gần hai tháng, ba thành phố ở khu Đông gồm Kompong Cham, Svay Riêng và Prey Veng trở thành chiến trường của những trận đánh và rút, tấn công vào quân đội khu Trung ương. Khi các cán bộ Khmer Đỏ chạy trốn, nhiều dân làng tới phá tan các “nhà bếp cộng đồng” rồi chia nhau trâu bò, súc vật và tài sản chung.
Đối đầu với những vũ khí và xe thiết giáp do Trung Hoa chế tạo, do quân Trung ương xử dụng, tới tháng Sáu thì có thêm đội quân hung hãn Nirdey do Ta Mok chỉ huy, cuộc kháng chiến tự phát của các toán quân được tổ chức một cách vội vàng, không kéo dài được lâu.
Trong tháng Bảy, sau cuộc chiến đấu sống chết, việc giết chóc trả thù bắt đầu. Cuộc tàn sát không giống như bất cứ lần nào trước mà khu Đông đã thấy. Dưới con mắt của Pol Pot và các đồng chí của ông, người dân khu Đông cho thấy bản sắc của họ. Họ là những kẻ “thân hình thì Khmer mà đầu óc thì Việt Nam.” Và phải đè bẹp hết. (42)
Không chỉ những người phản loạn và gia đình họ bị giết, toàn thể dân làng nào mà những người khởi loạn tới ẩn náu, cũng bị giết tuốt. Họ bị chở lên xe tải, đem ra ngoài ruộng, rồi giết chết bằng cuốc, dao. Hai năm sau, tôi đến thăm một trong những khu đất giết người ở Kompong Cham, nơi được tính vào khoảng năm chục ngàn người bị giết. Dưới những gốc xoài, sọ và xương người, già trẻ bày ra một cách hết sức kinh hãi.
Số người ở Khu Đông bị giết trong cuộc nổi loạn hồi tháng Năm tính vào khoảng trên một trăm ngàn. Nhằm dọn sạch hết những gì có thể nghi ngờ, một phần ba dân số được chuyển từ phía đông qua khu có sốt rét rừng ở phía tây Kampuchia. Nơi này, một nửa trong số họ lại chết vì đói hay bệnh tật, nếu họ không bị hành quyết.
Khi cuộc đàn áp tàn bạo đang diễn ra, dân chúng khu Đông và những người lãnh đạo cuộc nổi loạn trốn trong rừng, dưới những cơn mưa mùa nước đổ như xối. Thiếu lương thực, quần áo, thuốc men và vũ khí, chẳng bao lâu họ tan rã. Tới lúc này họ phải chọn, hoặc là đầu hàng, -chắc chắn sẽ chết hoặc tìm kiếm cơ may với Việt Nam. Nhiều người thuộc các sư đoàn Trung ương khi đánh nhau với Việt Nam, không chịu nỗi sợ hãi cũng tìm cách trốn. Những cán bộ thường tuyên truyền chống Việt Nam cũng khó khăn khi chọn lựa. Những cán bộ Issarak trước kia một thời có quan hệ gần gủi với Việt Nam, còn sống sót, nay đưọc giao cho sứ mạng vượt qua vùng biên giới đầy đặc mìn. Từ cuối tháng Sáu, Hà Nội bắt đầu phát thanh chương trình tiếng Miên, kêu gọi lật đổ. Tiếng nói của các cán bộ Khmer nổi tiếng, những người tưởng đã chết rồi, nay lại nghe tiếng trên đài làm cho người ta yên tâm. Sự thật là người anh của Heng Samrin, Heng Samkai, một lãnh tụ khác của khu Đông, được Việt Nam giúp đỡ. Năm 1981, Samkai nói với tôi:
“Chúng tôi biết rằng, tự chúng tôi không thể lật đổ Pol Pot được. Chúng tôi phải tìm Việt Nam giúp đỡ.” Là chủ tịch cơ quan vận chuyển thư điện khu Đông, -những người mang thư điện đi lại giữa các bộ phận của đảng, cũng như với Việt Nam, -ông ta biết tiếng Việt từ lâu. Tháng Giêng 1978, ông ta tới biên giới, rồi dọt lên máy bay trực thăng của Việt Nam bay tới thành phố Hồ Chí Minh. Ông và hai người Khmer Đỏ đào tẩu khác tập trung tại trường cảnh sát của chế độ cũ ở Thủ Đức.
Việt Nam CS bắt đầu huấn luyện những người kháng chiến và tập họp thành phong trào. Sự triệt hạ đảng bộ khu Đông, nơi Việt Nam hy vọng có thể có được cảm tình, đã đóng lại cơ hội có thể qua đó thực hiện sự thay đổi từ trong nước: một cuộc đảo chánh chống Pol Pot. Nay thì có rất ít cơ may cho những người Khmer được huấn luyện ở bên Việt Nam, lẽn về trong nước để liên lạc với những phần tử bất mãn và tổ chức nổi loạn.
Đã có tiếp xúc giữa Việt Nam và các nhóm nổi loạn khác nhau đang lẫn trốn ở trong rừng. Đầu tháng Chín, Việt Nam mở một cuôc tấn công khác có chiến xa dẫn đầu vào nội địa Kampuchia. Mục tiêu lần này là để tiếp xúc với Heng Samrin và những người theo ông đang trốn trong rừng và hộ tống họ về Việt Nam. Với Heng Samrin, Chea Sim, và những cán bộ Khmer Đỏ còn sống sót khác, một chính phủ tương lai của Kampuchia thân với Việt Nam được thành lập. (43)
Lê Đức Thọ từ Hà Nội bay vào. Tháp tùng ông ta là những chuyên viên Khmer khác trong đảng. Ông triệu tập một cuộc họp gồm có những người Khmer Đỏ đào tẩu, và những thường trú nhân Khmer cũ như Pen Sovan, Chea Soth, tại Thủ Đức trong hai ngày 21 và 22 tháng Chín. Họ quyết định biện pháp quân sự để chống lại Pol Pot sẽ thực hiện vào tháng Chạp, khi mùa màng đã gặt xong và đất đai khô ráo. Toàn nhóm bắt đầu làm việc để thành lập Mặt trận Cứu Nước Đoàn kết Quốc gia Kampuchia và cuộc chiến đấu bắt đầu. (44)