Trung Hoa thấy được âm mưu
Mọi hoạt động đã sẵn sàng từ mùa hè năm 1978, mặc dù có nhiều điều mà các quan sát viên bên ngoài không thấy được. Với những xáo trộn và tàn sát ở phía đông Kampuchia, với hàng ngàn Hoa kiều chen chân ở Lạng Sơn, thành phố biên giới, với hy vọng về Trung Hoa, và với việc gia tăng hoạt động quân sự của Sô Viết chung quanh Trung Hoa, cơ hội một cuộc xung đột rộng lớn đã ăn khớp nhau. Nhìn từ phía Bắc Kinh, việc Việt Nam đối xử với kiều dân Trung Hoa không hẵn là một bước cải cách để tiến lên xã hội chủ nghĩa, mà cũng không đơn giản là vấn đề kỳ thị chủng tộc. Nhưng đó là một phần toàn vẹn trong chính sách của Liên xô nhằm mục đích bao vây Trung Hoa. Cuộc xung đột Việt Nam và Kampuchia đang gia tăng được xem là một phần hoạt động của Sô Viết chống lại vai trò lãnh đạo của Bắc Kinh ở trong vùng, bằng cách xử dụng vai trò của một “tiểu bá”. Việt Nam CS thì thấy việc xử dụng bạo lực một cách dữ dội ở Kampuchia và việc Kampuchia tấn công Việt Nam như là một phần kế hoạch do Bắc Kinh khôn khéo lèo lái để đè bẹp Việt Nam. Moscow thì muốn hợp tác lâu dài với Việt Nam vì thấy quan hệ Hoa-Mỹ càng lúc càng nổi bật hơn. Quan điểm của tòa Bạch ốc (gia tăng chủ trương chống Liên Xô Manichean của Brzezinsky) thấy cuộc xung đột Miên Việt là một cuộc “chiến tranh ủy nhiệm” giữa Moscow và Bắc Kinh, qua đó, Trung Hoa đáng được Mỹ hỗ trợ về mặt chiến lược.
Với Moscow, đó là thời gian của cơ hội mà cũng là thời gian của hiễm nguy. Sự bắt đầu cải vả công khai giữa Trung Hoa và Việt Nam là cơ hội được Liên Xô chờ đón từ lâu để kéo Việt Nam vào vòng tay của họ. Moscow lợi dụng vấn đề người Hoa ở hải ngoại để lật tẩy việc Trung Hoa dùng Hoa kiều làm đạo quân thứ năm và đạt được thắng lợi tuyên truyền ở Đông Nam Á. Họ quay lưỡi dao về phía Trung Hoa và tố cáo mạnh mẽ Bắc Kinh là “bá quyền nước lớn” và can thiệp vào nội bộ Việt Nam.
Nhưng chuyến đi của Brzezinsky qua Trung Hoa hồi tháng Năm/1978 và công việc khoa trương chống Liên Xô của ông ta ở Bắc Kinh báo động cho Moscow, đặc biệt là bản báo cáo nói tới việc ông ta thảo luận bí mật trao cho Trung Hoa kỷ thuật quân sự và vũ khí. Ngày 25 tháng Sáu, tổng bí thư đảng Cọng sản Liên Xô Leonid Brezhnev tấn công kịch liệt như chưa bao giờ có về chính sách của Mỹ đối với Trung Hoa. Ông ta nói rằng điều này, ở Hoa Kỳ, những ai chơi “lá bài Trung Hoa” là theo đuổi một chính sách “thiển cận và nguy hiểm”. Ông ta cảnh cáo rằng “những ai dùng nó phải hối tiếc cay đắng,” (45)
Một cách bí mật, Liên Xô gia tăng quan hệ với Hà Nội. Bộ Chính trị đảng Cọng sản Việt Nam họp hồi giữa tháng Hai đưa ra một số quyết định lớn về Kampuchia và Trung Hoa, và kết luận rằng Việt Nam sẽ can thiệp quân sự vào Kampuchia cũng như trả miếng Trung Hoa. Để đối đầu với đe dọa từ Trung Hoa, Hà Nội cần một chính sách bảo đảm. Sau này, một quan chức Việt Nam nói với đại sứ Ấn Độ tại Hà Nội: “Chúng tôi rứt một ngọn lá khỏi cuốn sách Ấn Độ”. Liên Xô đề nghị ký với Ấn Độ một thỏa ưóc thân hữu và hợp tác nhằm bảo đảm việc hỗ trợ quân sự năm 1969. Ấn Độ chấp thuận đề nghị đó trong vòng hai năm. Ấn Độ đồng ý ký thỏa ước và chấp nhận sự bảo vệ quân sự của Liên Xô khi nào họ thấy rằng -trong trường hợp có chiến tranh với Pakistan và có khả năng Trung Hoa can thiệp vào nội bộ của họ vì muốn bảo vệ cho Pakistan. Họ cần tới sự bảo vệ của siêu cường. Ba tháng sau khi ký thỏa ước với Moscow, Ấn Độ đánh bại Pakistan và đem lại độc lập cho Bangladesh.
Hà Nội nghiên cứu kỹ lưỡng đề nghị của Liên Xô hồi năm 1975 về một thỏa ước hữu nghị, ngay sau khi Hà Nội chiến thắng miền Nam. Đầu tháng Sáu, tướng Giáp bí mật đi Moscow trình bày bản sơ thảo về thỏa ước nói trên và đưa ra một danh sách các loại vũ khí muốn mua. Trên đường đi Moscow, Giáp không công bố việc dừng chân ở Tân Đề Li. Tại cuộc họp với bộ trưởng Quốc phòng và bộ trưởng Ngoại giao Ấn độ tại phi trường, Giáp đề nghị Ấn Độ giúp Việt Nam xây dựng một nhà máy sản xuất vũ khí nhỏ. Cho rằng cuộc chiến tranh Việt Miên đang hiện ra ở cuối chân trời, Việt Nam không muốn phụ thuộc hoàn toàn vào Liên Xô về vũ khí. Một quan chức có địa vị quan trọng, người theo dõi rất sát cuộc họp này, hai năm sau, nói với tôi là đề nghị của Giáp bị từ chối hoàn toàn vì thiếu nguyên vật liệu. Đề nghị này của Giáp có thể có kết quả khác đi nếu chính phủ thuộc đảng Quốc Đại của bà Indira Gandhi -người được xem là bà mụ đỡ đẻ cho Bangladesh- nắm chính quyền. Tuy nhiên vì chính phủ của Morarji Desai, chính phủ cánh hữu đầu tiên của Ấn Độ e ngại dính líu vào một cuộc tranh chấp mà rõ ràng là chống lại Trung Hoa và liên minh với Liên Xô.
Liên xô có vẻ giao động bởi vì Việt Nam muốn trở lại thỏa ước hữu nghị. Cuối tháng Sáu, Nikolai Firuybin, thứ trưởng ngoại giao Liên xô đi Hà Nội. Trong chuyến đi bí mật đó, ông ta gạt bỏ mọi khác biệt lớn trong bản dự thảo. Thời gian khi nào ký thỏa ước là do Hà Nội quyết định. Trước khi hoàn tất sẽ không được công bố, cũng để cảnh cáo Bắc Kinh. Tuy nhiên thỏa ước sẽ được công bố đúng lúc để ngăn ngừa Bắc Kinh trù liệu bất cứ một hành động quân sự nào chống Việt Nam. Bộ Chính trị cũng không muốn làm u ám mối hy vọng quan hệ bình thường với Hoa Kỳ nếu sớm công bố bản thỏa ước quân sự ký với Liên Xô. (46)
Vì bản thỏa ước hữu nghị Việt-Xô còn chờ chữ ký, việc chuẩn bị hợp lý cho cuộc xung đột trong tương lai vẫn tiếp tục. Tháng Tám, đáp ứng lời yêu cầu của Việt Nam, Liên Xô thực hiện các chuyến vận chuyển vũ khí bằng hàng không và hàng hải cho Việt Nam mà trước kia chưa hề có. Máy bay khổng lồ Antonov 12 thực hiện khoảng một chục chuyến bay tới Đà Nẵng đổ xuống các loại đại bác, hỏa tiễn, radar và đạn dược để giúp Việt Nam củng cố lực lượng chống Trung Hoa. Máy bay Mig 21 được chở tới Đà Nẵng, lắp ráp thêm ở đây rồi bay ra phía Bắc, sát với biên giới Trung Hoa.
Khi chiến dịch tuyên truyền của Liên Xô gia tăng đến độ đinh tai nhức óc, Trung Hoa cũng đáp lại như thế. Trong ba tuần lễ tấn công đầu tiên của Trung Hoa, tố cáo Việt Nam đầy ải, ngược đãi và trục xuất Hoa kiều, họ bắt đầu đánh giá Việt Nam là tay sai của Liên xô, là một “Cu-Ba ở châu Á...” Lời thóa mạ ám chỉ binh lính Cu-Ba chiến đấu ở Angola vì quyền lợi của Liên Xô. Bắc Kinh cho rằng “Đế quốc Xã hội Chủ nghĩa Liên Xô” là kẻ hỗ trợ và xúi dục chính để Việt Nam chống lại Trung Hoa. (47)
Trong khi cuộc tranh cải về thỏa hiệp Hoa kiều ở Việt Nam leo thang gay gắt, Trung Hoa hủy bỏ tất cả chương trình viện trợ, tố cáo Việt Nam có hoạt động chống Kampuchia. Từ giữa tháng Sáu, Trung Hoa bắt đầu lặp lại lời Khmer Đỏ tố cáo Việt Nam có chính sách bành trướng lãnh thổ vào Kampuchia. Tờ Nhân Dân Nhựt báo của Trung Hoa phát hành hồi tháng Bảy tố cáo Hà Nội sau khi chiến thắng Hoa Kỳ cũng như các chính phủ ở Đông Dương, đã thủ đắc một số lớn vũ khí “làm cho cái đầu của Việt Nam thì phình to lên và tay chân thì ngứa ngáy muốn giành giựt thêm nữa.” Nó làm cho Việt Nam mơ tưởng trở thành “chúa tể” vùng Đông Nam Á và bước đầu”dựng lên” một Liên bang Đông Dương dưới sự kiểm soát của Việt Nam.
Chẳng bao lâu, những tay tuyên truyền ở Bắc Kinh tăng cường tố cáo Việt Nam, cho rằng cuộc xung đột với Kampuchia thuần túy chỉ là mối tương quan giữa Việt Nam thì muốn bành trướng; còn Liên Xô thì có tham vọng làm bá chủ. Họ không còn cho rằng vấn đề Kampuchia, vấn đề người Hoa ở hải ngoại và việc tranh luận giữa hai nước xã hội chủ nghĩa, có thể giải quyết bàng thương lượng. Các nhà bình luận cho rằng “cuộc xung đột này (Việt Nam và Kampuchia) cùng với hành động Việt Nam chống Trung Hoa, gồm cả hành vi ngược đãi và trục xuất kiều dân, xử dụng vấn đề Hoa kiều nhằm phá hoại quan hệ của Trung Hoa với các nước Đông Nam Á, hình thức cấu thành toàn bộ âm mưu. Trong âm mưu đó, siêu cường Liên Xô với chính chủ nghĩa bá quyền, giúp đỡ và che chở Việt Nam thực hiện chủ nghĩa bá quyền trong vùng, Việt Nam thì phục vụ cho người anh lớn Sô Viết của họ.” (48)