← Quay lại trang sách

Người Mỹ: hãy về đi

Phụ tá thứ trưởng Ngoại giao Hoa kỳ Richard Holbrooke thực hiện một nguyên tắc: im lặng là cách tốt nhất ở chỗ đông người. Ngày 27 tháng Chín/1978, lần thứ hai trong một tuần lễ, nhóm thương thuyết ít người của ông tập trung với phái bộ Mỹ ở Liên Hợp Quốc giữa sự sinh hoạt ồn ào của Đại Hội Đồng LHQ. Sự lưu thông vào buổi chiều trên đại lộ số 5 hết sức đông đúc với cả hàng lô xe đưa các ông bộ trưởng, các ông đại sứ chen chúc nhau trong dòng xe cộ thường nhật cùng với các cổ xe chở du khách tiến tới tòa nhà Liên Hợp Quốc. Các ông tổng thống, thủ tướng và bộ trưởng ngoại giao của 140 quốc gia đi xuống khu phố Manhattan. Họ gặp các phát ngôn viên, thông báo buổi họp của Đại hội Đồng và tham dự hàng loạt cuộc tiếp tân, tiệc tùng, hội họp náo nhiệt. Holbrooke nghĩ rằng lý tưởng nhất là nên lặng lẽ nói chuyện với Việt Nam để đặt lại quan hệ bình thường. Hồi tháng Hai, đại sứ Việt Nam tại Liên Hợp Quốc bị trục xuất vì dính líu vào một vụ gián điệp, việc liên lạc với Việt Nam không còn bình thường nữa, những hoạt động công khai giữa hai bên chết yểu, theo Holbrooke, không làm tổng thống Carter vui lòng.

Các cuộc dàn xếp bí mật diễn tiến theo đúng kế hoạch. Báo chí khó có thể đánh hơi được cuộc gặp gở đầu tiên của ông với thứ trưởng ngại giao Nguyễn Cơ Thạch năm ngày trước đó. Buổi chiều 27 tháng Chín, chẳng ai lưu ý khi Holbrooke, Frank Wisner, thành viên bộ tham mưu Hội Đồng An Ninh Quốc gia Michel Oksenberg, và hai phụ tá bộ Ngoại giao đi taxi tới gặp đại biểu Việt Nam lần thứ hai. Phái bộ Việt Nam chỉ có mấy người, tránh mặt trong một khu gia cư ở building vô danh 35 tầng, xây bằng gạch và kiếng ở Waterside Plaza, trông xuống Sông Đông (East River) là một nơi chẳng có gì huy hoàng nhưng lại là nơi có tính cách lịch sử. Holbrooke tin chắc chuyến gặp gỡ với Thạch lần này, cuối cùng sẽ đóng lại một chương đau buồn của lịch sử Mỹ vì những năm Mỹ tham chiến ở Việt Nam và tiến tới một thời kỳ lịch sử mới. Tuần rồi, sau khi ký kết thành công thỏa hiệp Camp David giữa Menachem Begin và Anwar Sadat, trong trí của Carter, bình thường hóa quan hệ với Hà Nội sẽ là bước thứ hai.

Trong buổi họp với Thạch ngày 22 tháng Chín, Holbrooke ngạc nhiên vì Việt Nam kiên trì đòi hỏi phải có viện trợ Mỹ mới tái lập quan hệ ngoại giao. Ông ta đem theo một tập hồ sơ dày, trong đó có những lời phát biểu chung hay với tính cách riêng của những người có trách nhiệm, tuyên bố từ hồi tháng Bảy là Việt Nam muốn tái lập quan hệ với Hoa Kỳ mà không có điều kiện tiên quyết nào. Nhưng mỗi khi ngồi vào bàn thương nghị thì Thach lại bắt đầu điệp khúc về lương tâm của người Mỹ đối với Việt Nam bằng viện trợ tái thiết. Đó những đề nghị vô ích làm cho các cuộc thương nghị năm 1977 thất bại. Ông ta báo cáo với bộ trưởng Ngoại giao: “Tôi không tin điều ấy. Việt Nam vẫn cứ đòi tiền”.

Tuy nhiên, biết chiến thuật thương nghị của Việt Nam, Holbrooke hy vọng Thạch sẽ từ bỏ điều kiện ấy trong cuộc họp lần 2. Ông ta nghĩ, dù sao, Thạch không đòi hỏi buổi họp thứ hai vì hôm 22 thánh Chín, Holbrooke đã phá vở buổi họp, nói rằng chẳng ích lợi gì nếu cứ tiếp tục công việc theo phương cách đó. Thực ra, Holbrooke chẳng tin Thạch cuối cùng sẽ thỏa thuận việc lập quan hệ ngoại giao vô điều kiện. Vì vậy ông ta mang Oksenberg theo ngồi bên cạnh. Ông ta biết cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Carter là Zbigniew Brzezinsky không nhiệt tình thiết lập liên lạc với quốc gia mà ông ta cho là “đệ tử” của Liên Xô. Việt Nam, đặc biệt đang có xung đột với Trung Hoa, đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ. Holbrooke tính rằng Việt Nam khi khước từ, không còn đòi được viện trợ trước mặt của Oksenberg, chuyên viên về châu Á của Brezinsky sẽ gây khó khăn cho Hội Đồng An ninh Quốc gia, nơi đây thường gây trở ngại cho kế hoạch bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam.

Cuộc họp có vẽ như một việc thương mại. Thạch mặc bộ đồ màu xanh biển, đón chào họ khi họ vào khu Việt Nam. Sau cái bắt tay ngắn ngủi, đoàn Mỹ ngồi xuống ghế bên cái bàn màu rơm ở trong góc căn phòng có đồ đạc thưa thớt, có lẽ nơi dùng để tiếp tân của phái đoàn Việt Nam. Đối với chuyên viên về vấn đề Trung Hoa Oksenberg, đây là lần đầu tiên ông ta đụng đầu với quan chức Việt Nam. Ông hơi ngạc nhiên vì trông Thạch, 53 tuổi, vẫn còn trẻ. Dáng bộ ông ta trẻ trung và hay cười. Tuy nhiên, bộ điệu đó không che dấu được ba thập niên kinh nghiệm của Thạch trong chiến tranh và ngoại giao. Chuyện trò khi uống trà trong giờ nghỉ, Thạch nói với người Mỹ rằng ông ta là trung tá trong quân đội Việt Minh vào thời kỳ có cuộc bao vây lịch sử quân đội Pháp ở Điện Biên phủ năm 1954. Hai năm sau, ông ta bắt đầu sự nghiệp ngoại giao khi làm tổng lãnh sự ở Tân Đề Li. Lúc này, Thạch nói được tiếng Pháp, học cách xã giao theo Âu tây và học thêm tiếng Anh. Có lần ông ta hỏi một người phỏng vấn ông khi chắc rằng ông ta chỉ muốn mình là người Việt Nam mà thôi: “Ông có nghe mùi cà-ri trong tiếng Anh của tôi không?” Kiến thức Anh ngữ và kinh nghiệm ngoại giao được xử dụng hồi thập niên 1970, khi ông ta làm phụ tá cho Lê Đức Thọ trong các cuộc thương nghị dai dẵng với Henry Kissinger. Bây giờ thì tới phiên ông ta. Thạch bắt đầu xuất hiện, làm đại diện cho Việt Nam và nhanh chóng chứng tỏ rằng con người ông chẳng gì thay đổi. Ông ta nói nếu người Mỹ tới Hà Nội có mang cái gì trong tay thì hay lắm. Holbrooke lại lặp lại Hoa Kỳ không thể hứa gì cả. Sau một tiếng rưởi đồng hồ bàn qua cải lại chẳng có ích gì, Holbrooke thu gom giấy tờ bỏ vào kẹp rồi ra dấu buổi họp coi như xong. Ông ta nói: “Ông Thạch, chúng ta đã đi tới gần cuối đường. Nếu đây là tất cả những gì ông trình bày thì chẳng còn gì để tiếp tục thảo luận nữa.” Thạch trả lời: “Chúng ta uống chút trà.”

Họ rời bàn và đi tới góc phòng phía bên kia. Ở đó, bình ca-phê, trà, bánh cúc-ki và chã giò dọn sẵn trên bàn. Mỹ-Việt nhắp cà-phê và nhắm chả giò trong khi bầu trời trên sông Đông chuyển qua màu tím. Suốt cả buổi chiều hôm đó, Oksenberg ngồi nín thinh, mặt cau có. Ông ta hết sức bi quan về việc bình thường hóa quan hệ, thực sự nghiêm trọng đối với Việt Nam. Với ông, tuồng như Holbrooke là người làm cho tình hình xấu đi vì cứ buộc Thạch phải từ bỏ yêu cầu viện trợ. Thạch biết Oksenberg là ai và cảm thấy bất lợi. Ông ta cố làm cho cuộc nói chuyện nhẹ nhàng theo phong cách của ông. Oksenberg làm như không biết tới cố gắng đó, nhìn chăm chăm vào chân trời phía khu công nghiệp Queens hiện lên ngoài cửa sổ. Sau này, Oksenberg kể lại: “Tôi không thể nói gì với ông ta. Đây là lần đầu tiên tôi gặp một người Việt Nam.” Để phá tan sự im lặng, Holbrooke chấm dứt cuộc thảo luận.

Khi sự căng thẳng đã qua, Holbrooke sắp sữa chia tay với Thạch, Thạch nói: “Hãy bàn thêm chút nữa.” Khi họ trở lại cái bàn màu rơm, bất thần Thạch trở thành con người khác. “Ôkay! Tôi sẽ nói những gì ông muốn nghe. Chúng ta để lại những trở ngại đó về sau. Chúng ta hãy lập lại quan hệ bình thường mà không có điều kiện tiên quyết.” Sau này Holbrooke thuật lại: “Xong. Như Thạch bày tỏ. Rồi ông ta muốn một thỏa ước, đã hai năm chưa bàn xong, thì bây giờ lại hoàn tất trong vòng mười phút.” Thạch yêu cầu Holbrooke ký một công hàm ngoại giao về quan hệ giữa hai nước. Ông ta nói: “Có máy chữ ở đằng kia. Cả hai nhóm tham mưu thảo luận để viết thành văn bản, trong khi chúng ta uống trà.” Holbrooke có vẽ hân hoan. Ông ta nói: “Đây là sự phát triển có tính cách xây dựng. Một bước tiến rất đáng kể.” Nhưng ông ta từ chối ký bất cứ một văn bản nào vào lúc này như Thạch yêu cầu. Ông ta nói: “Tôi sẽ đệ trình việc này lên tổng thống. Chúng tôi sẽ xem xét rất cẩn thận đề nghị của ông. Và sẽ báo cho ông biết lúc nào chúng ta có thể tiến hành.” Thạch đang nôn nóng về thỏa ước đó, ít ra sẽ được ký vào lúc bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn duy Trinh đang ở Nữu Ước vào tuần đầu tháng Mười. Tuy nhiên, Holbrooke nói là khó có thể trả lời trong khoảng thời gian đó.

À “Được rồi”, Thạch nói. Ông ta sẽ ở lại Nữu Ước cho tới 20 tháng Muời. Rồi như một trò ão thuật, buổi họp buồn tẻ đó chuyển mình. Viễn ảnh tòa đại sứ Mỹ được thiết lập ở Hà Nội hiện lên ở cuối chân trời. Thạch nói với Holbrooke tòa nhà thời Pháp thuộc là lãnh sự Mỹ ở Hà Nội sẵn sàng để cho người Mỹ xử dụng. Tòa đại sứ cũ của Cọng Hòa Miền Nam ở Hoa Thịnh Đốn đang bị bỏ trống là điều Holbrooke vui vẻ hứa với Thạch. Thạch chẳng thể chờ bàn tới số lượng nhân viên ngoại giao của mỗi tòa đại sứ, việc thiết lập phương cách liên lạc và các bưu kiện ngoại giao. Thời gian bây giờ là củng cố các vấn đề then chốt của bản thỏa hiệp.

Khi Holbrooke vui vẻ ra về với nụ cười rạng rỡ với Thạch, trời Nữu Ước đã tối. Nhưng, tuởng như đó là một ngày mới vậy.

Với việc loại bỏ trở ngại cuối cùng và thiết lập quan hệ với Việt Nam, chính sách ngoại giao của Mỹ như đụng phải một ngã tư đường. Đó là lúc cần phải quyết định. Sự xung đột có tính cách chiến lược đối với Trung Hoa và Đông Nam Á từ lâu mà Zbigniew Brzezensky và Cyrus Vance theo đuổi, không có điểm mâu thuẫn công khai nào thì bây giờ lại phải giải quyết. Việt Nam và Trung Hoa, Kampuchia và Việt Nam rõ ràng là con đường đụng đầu bằng vũ lực càng lúc càng gia tăng nguy hiểm nếu Liên Xô can dự vào. Có thể nào Washington đứng về phía Trung Hoa và đồng minh đáng ghê của họ là Khmer Đỏ để trở thành một liên minh chống Liên Xô -như Brzezinsky chủ trương. Hay họ sẽ quan tâm đến cuộc xung đột đang hình thành như Vance và Holbrooke đã làm, trở thành cuộc xung đột giữa các quốc gia có căn nguyên từ trong lịch sử mà Hoa Kỳ sẽ đứng ngoài? Quyền lợi của Mỹ ở châu Á và trên thế giới liệu có tốt đẹp hơn khi Hoa Kỳ có quan hệ ngoại giao bình thường với cả Trung Hoa lẫn Việt Nam? Hay Hoa Kỳ sẽ không thèm lưu tâm đến Hà Nội để đạt hữu nghị với Trung Hoa? Hai nước Cọng sản lớn hàng đầu ở Châu Á đang tỏ dấu mời Hoa Kỳ trở lại vùng này để đóng một vai trò chính. Bây giờ là lúc Jimmy Carter quyết định quay trở lại giữ thế cân bằng quyền lực hay đứng về phía nào?