← Quay lại trang sách

Đã đến lúc phải dạy cho một bài học

Trung Hoa công khai tuôn ra những lời giận dữ chống Việt Nam, phản ảnh chính sách Trung Hoa vào đầu mùa hè năm 1978. Chủ tịch Mao từng tin tưởng một cách chắc chắn rằng chiến tranh giữa Trung Hoa và đế quốc là không thể tránh được và cổ võ dân chúng giữ vững tư tưởng, chuẩn bị tích trữ lúa gạo và đào hầm ẩn núp. Tuy nhiên, từ khi Mao qua đời và bè lũ bốn tên bị lật đổ, các nhà lãnh đạo mới ở Trung Hoa cẩn thận hướng tới đường lối lạc quan hơn, thấy rằng sự trì hoãn chiến tranh là điều có thể có được nếu Trung Hoa thành tựu trong việc thành lập môt phong trào đoàn kết quốc tế để chống lại sự đe dọa của Moscow. Vì tham vọng thực thi kế hoạch 10 năm hiện đại hóa, kể từ tháng Ba/ 1978, Trung Hoa cần có một thời gian ổn định lâu dài để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh toàn cầu không thể nào tránh khỏi. Các nhà lãnh đạo Trung Hoa cho rằng Trung Hoa có thể mua thời gian để giành trước kế hoạch của kẻ thù ngay từ bước đầu. Một quan chức Trung Hoa nói với chuyên viên quốc phòng Mỹ, Michael Pillsbury hồi tháng Năm/ 78: “Phương Tây có thể phá vở thời biểu chiến lược của Liên Xô bằng thách đố ảnh hưởng của họ tại các quốc gia thuộc khối thứ Ba có giá trị chiến lược, bằng cách từ chối liên minh với Liên Xô, bằng cách luôn luôn giữ trong óc nhận định về sự yếu kém trong nội bộ Liên Xô. Các yếu kém đó là các vấn đề xã hội, kinh tế và sự cân bằng chủng tộc ở Sô Viết.” (49) Dù không chỉ rõ quốc gia thứ Ba nào, nhưng khi nói tới “giá trị chiến lược” thì người ta chắc chắn rằng đó là Việt Nam. Một cách thú vị, vào lúc Trung Hoa phát triển chính sách mới thì Brzezinsky tới thăm Trung Hoa. Theo nhà chuyên môn về Trung Hoa trong Hội đồng An ninh Quốc gia, Michel Iksenberg, người tháp tùng Brzezinsky tới Trung Hoa, thì “sự hăng say trong việc Trung Hoa tố cáo Việt Nam phản phúc là điều hết sức bất ngờ trong cuộc thảo luận với Brzezensky”. (50)

Những tiết lộ về sau, theo báo cáo của một người Nhật, trong cuộc họp hồi tháng Năm/1978, Trung Hoa quyết định có hành động đáp ứng sự “khiêu khích của Việt Nam.” và “thách thức biểu dương quân sự nếu Việt Nam liều lĩnh tấn công” là điều hoàn toàn có khả năng xảy ra. (51) Kế hoạch bất ngờ đó, nếu như hồi đó có thực hiện đi nữa, thì hai tháng sau lại được củng cố. Các nhà lãnh đạo Trung Hoa xem xét một cách cẩn thận tình hình quân sự ở Kampuchia và sự sụp đổ của Khmer Đỏ vì áp lực của Việt Nam. Vài nhà lãnh đạo quân sự đề nghị gởi chí nguyện quân Trung Hoa tới Kampuchia, lý luận rằng như thế là đặt Kampuchia dưới ảnh hưởng Trung Hoa và cũng làm cho các nưóc trong khu vực này tin tưởng Trung Hoa. Về sau, một vài nguồn tin Trung Hoa cho tôi biết, “Ý tưởng đó đã bị phản bác ngay tức khắc vì sự khác biệt về nền tảng kinh tế, quân sự và chính trị.” Một quan chức giải thích Trung Hoa tiến tới Kampuchia bằng cách bày tỏ quan điểm của họ: “Một khi không hy vọng người ta tới thì không ai nấu nướng làm chi.” Ông ta nói thêm, “Cuối cùng, nguyên tắc của chủ tịch Mao là việc bảo vệ độc lập, quyền tự trị của một nước là chính công việc của nhân dân nước đó.” Một quan điểm thực tế hơn là về địa lý, Trung Hoa và Kampuchia xa cách nhau. Một điều nguy hiểm khác là có thể khiêu khích Liên Xô can thiệp vào Việt Nam. Việc can thiệp quân sự trực tiếp của Trung Hoa vào Kampuchia sẽ làm cho các nước không cọng sản ở Đông Nam Á lo ngại, là đối đầu với Tây phương, là làm đảo lộn kế hoạch hiện đại hóa của Trung Hoa. Trung Hoa đồng ý gia tăng viện trợ quân sự và gởi cố vấn đến Kampuchia, tuy nhiên, họ kết luận rằng chính Kampuchia của Pol Pot phải tự lo liệu lấy.

Trong khi bác bỏ việc can thiệp vào Kampuchia, Trung Hoa cũng không chịu để Việt Nam đe dọa nước đồng minh duy nhất của họ ở Đông Nam Á, bằng cách miễn trừ hay thách thức Bắc Kinh về vấn đề trục xuất Hoa kiều, hân hoan với kẻ thù đáng nguyền rủa của Trung Hoa. Các nhà lãnh đạo Trung Hoa, đứng đầu là Đặng Tiểu Bình, chọn một phương cách mà các hoàng đế trước kia đã làm đối với nước Việt Nam “ngạo mạn”: Trừng phạt nó. Trong trật tự thế giới của Khổng tử Trung Hoa cổ, không có gì đáng trách mắng hơn là thiếu lòng hiếu thảo với hoàng đế, người cha của thiên triều. Với tất cả những gì đã viện trợ cho Việt Nam trong thời chiến - Bắc Kinh ước tính khoảng hai chục tỷ đôla - Việt Nam bây giờ đá đít Trung Hoa. Tháng Tám/ 1978, một quan chức Bắc Kinh mô tả với tôi như sau, khi nói về sự vong ơn của Việt Nam: “Bọn chúng có trái tim đen tối.”

Sự xúc cảm chắc chắn đã dự phần quan trọng trong thái độ thù địch của Trung Hoa đối với Việt Nam. Mai mỉa thay, con người thù ghét Việt Nam nhứt, lại có lúc thương Việt Nam nhứt lại chính là Đặng Tiểu Bình. Khi ông ta tái xuất hiện trên chính trường Trung Hoa thì Việt Nam reo mừng. Có lẽ đó là do cảm tình của Đặng ủng hộ Việt Nam trong những năm chiến tranh. Điều ấy làm cho Đặng cảm thấy cay đắng hơn khi ông ta thấy Hà Nội trở mặt. Một nhà ngoại giao Thái có mặt trong nhiều cuộc họp với Đặng kể lại rằng “khi nói tới Việt Nam, người ta thấy được sự thay đổi nơi Đặng Tiểu Bình.” Việc ông ta ghét Việt Nam là từ trong tạng phủ. Ông ta nhổ toẹt vào ống nhổ rồi gọi Việt Nam là bọn “chó”. Trong cuộc họp báo hồi tháng Mười một/1978, ông ta tuyên bố “Việt Nam là “bọn vô lại” phương Đông”. Bên cạnh ông là thủ tướng Thái Lan Kriangsak Chomanan ngồi co lại một cách lúng túng. Tới tháng Tám, khi những xúc động đó đã qua đi, ý định của Trung Hoa về Việt Nam lại cũng thiếu rõ ràng.

Ba năm sau, một quan chức của Bắc Kinh tiết lộ cho tôi biết, một trong những buổi họp hàng tuần đều đặn hồi đầu tháng Bảy/1978, bộ Chính trị đảng Cọng sản Trung Hoa quyết định “dạy cho Việt Nam một bài học” vì sự vong ơn và xấc láo của họ. Quyết định đó, thông qua một cách bí mật, không có sự chống đối. Nhưng Đặng thuyết phục rằng, hành động quân sự có hạn chế chống Việt Nam cũng là bày tỏ cho Liên Xô thấy rằng Trung Hoa sẵn sàng đứng lên để chống lại tên côn đồ lớn, chính là Liên Xô.

Nếu Liên Xô thất bại trong việc giúp đỡ Việt Nam, như Đặng hy vọng, thì điều đó cho thấy Moscow thiếu trách nhiệm, vị thế yếu kém của Liên Xô trong khối thứ Ba. Theo một viên chức Trung Hoa, Đặng cho rằng, để có thể có kết quả, hành động của Trung Hoa không phải là một cuộc tranh chấp giữa một quốc gia với một quốc gia nhưng chính là một phần đóng góp của Trung Hoa vào chiến lược quốc tế chống bá quyền, phục vụ cho quyền lợi bên ngoài. Bộ Chính trị tính toán lại thời gian và khả năng hành động quân sự, quyết định tăng cường liên minh với Hoa Kỳ, các nước không cọng sản ở châu Á và Tây phương. (52)

Cuối tháng Bảy/1978, khi bộ trưởng Quốc phòng Kampuchia Son Sen tới Bắc Kinh để mưu tìm cam kết viện trợ quân sự chống lại Việt Nam, ông ta nghe đầy tai về lòng tự tín. Đặc biệt, những lời chói tai trong diễn văn là của Đặng Tiểu Bình, người có lần bị Khmer Đỏ đã kích là tên “phản cách mạng”. Ông ta nói thẳng với Son Sen là viện trợ của Trung Hoa sẽ chẳng có ích lợi gì nếu Kampuchia không chịu từ bỏ chính sách “cực đoan” và thành lập mặt trận đoàn kết chống kẻ thù. Trung Hoa thúc đẩy Khmer Đỏ đưa thái tử Norodom Sihanouk lên đứng đầu chính phủ, và cố gắng cải thiện hình ảnh Kampuchia với quốc tế. Các nhà lãnh đạo Trung Hoa khuyến cáo Son Sen nên chuẩn bị kéo dài chiến tranh du kích bằng cách đào hầm, thành lập các nơi chôn dấu vũ khí và động viên quần chúng. Nếu Việt Nam xâm lăng trở lại thì nên áp dụng du kích chiến hơn là đối diện chiến đấu. Trung Hoa hứa sẽ gây sức ép với Việt Nam nhưng không nói rõ họ sẽ làm như thế nào. (53)

Dù khuyến cáo nên có lòng tự tín, chẳng bao lâu sau, Trung Hoa thiết lập cầu không vận vũ khí và đạn dược viện trợ cho Kampuchia mà trước kia chưa có bao giờ. Ngoài những chuyến bay hai tuần một lần qua không phận Lào, lại có thêm 5 chiếc Boeing 707 bất thường qua lại giữa Quảng Đông và Phnom Pênh bay trên không phận biển Nam Hải. (Đông Hải -nd) Cùng với vũ khí và đạn được, hàng trăm cố vấn Trung Hoa bay tới Kampuchia. Theo tình báo Mỹ ước đoán, tới cuối năm 1978, tổng số nhân viên Trung Hoa có mặt ở Kampuchia lên tới năm ngàn người.

Tuy nhiên, việc chuẩn bị chính cho hành động quân sự của Trung Hoa chống Việt Nam khởi đầu bằng ngoại giao. Nhờ sự thúc đẩy kín đáo của Brzezinsky với Tokyo, tháng Tám/1978, Nhật ký thỏa hiệp thân hữu và hòa bình lâu dài với Trung Hoa. Một điều khoản trong thỏa ước đó nói về việc chống lại chủ nghĩa bá quyền từ bất cứ thế lực nào là cú đấm ngoại giao đầu tiên của Trung Hoa đối với Sô Viết. Với sự có mặt của Leonard Woodcock ở Bắc Kinh, và của Chai Zemin ở Hoa Thịnh Đốn, đứng đầu phái bộ đại diện của hai nước, một tiến trình mới bắt đầu cố gắng bình thường hóa quan hệ ngoại giao Hoa-Mỹ. Và khi ngành truyền thông Trung Hoa mở chiến dịch ve vãn các nước láng giềng ở Đông Nam Á, (từ lâu họ nghi ngờ Trung Hoa chủ trương phát triển cách mạng), để chuẩn bị chuyến đi lịch sử vá víu ngoại vi rách nát của Đặng tới các nước không-Cọng sản ở vùng Đông Nam Á.

Khi mùa hè năm 1978 tới gần hơn, Việt Nam và Trung Hoa lặng lẽ vạch kế hoạch chiến đấu. Tuy nhiên, trước khi tiếng súng bùng nổ, là thời gian giành lấy bạn hữu và cô lập kẻ thù. Một trong những phần thưởng lớn nhất trong cuộc chạy đua Hoa-Việt này chính là ở một người mà mới đây họ đã tìm cách đuổi ra khỏi châu Á: Chú Sam.