Chuyến đi Hạ Uy Di
Tuy nhiên, đây không phải là lúc để Hà Nội giận hờn lâu. Việt Nam hết sức quan tâm chuyến đi Trung Hoa của Brzezinsky và lời tuyên bố của ông ta hỗ trợ nước này chống lại bá quyền địa phương, người ta hiểu ngay là ám chỉ Việt Nam. Sự căng thẳng Việt-Hoa gia tăng, Bắc Kinh viện trợ vũ khí cho Kampuchia, Viêt Nam chuẩn bị can thiệp vào Kampuchia hồi mùa hè năm 1978, nên việc thiết lập quan hệ với Hoa Thịnh Đốn là vấn đề khẩn trương. Fred Brown, một quan chức bộ Ngoại giao kể lại: “Việt Nam muốn bình thường hóa vào ngày Lễ Lao Động, hoặc ít ra là Ngày Lễ Tạ Ơn” (Thanksgiving). Chờ đợi để họp với người Mỹ, dù sao, Hà Nội cũng đặt thành vấn đề. Trong chuyến đi thăm Tokyo hồi đầu tháng Bảy, Phan Hiền phát biểu trong một cuộc họp báo, cho biết toàn bộ vấn đề viện trợ Mỹ vẫn còn được giải quyết. Việt Nam không còn thúc đẩy điều kiện tiên quyết để bình thường hóa. Ông ta nói: “Về phía chúng tôi, chúng tôi giữ thái độ mới, nhìn tới phía trước”. Ông ta cũng nói Việt Nam chuẩn bị đón tiếp người Mỹ nếu họ đến với thái độ thân hữu và hợp tác. Tuy nhiên, “khi họ đến mà có cầm cái gì trong tay thì chúng tôi hoan hô hơn là họ đến với hai bàn tay không.” (3)
Sau Tokyo, Phan Hiền đi Úc. Trong buổi họp với thủ tướng Úc Malcolm Fraser, và bộ trưởng Ngoại giao Andrew Peacock, Hiền lặp lại lời ông ta phát biểu trước kia là lập lại quan hệ ngoại giao vô điều kiện. Andrew Peacock nói với tôi: “Trước khi Hiền đến, tôi đã nói chuyện điện thoại hai, ba lần với Dick (Holbrooke) về vị thế mới của Việt Nam. Tôi lại gọi ông ta sau khi họp, ông ta hoàn toàn lạc quan vì họ (Việt Nam) không còn đòi hỏi điều kiện tiên quyết nữa.” (4)
Holbrooke lại càng lạc quan nhiều hơn khi Việt Nam nói thẳng với quan chức Hoa Kỳ. Một cuộc họp xảy ra hồi tháng Bảy khi Hà Nội nhận lời mời trước kia, gởi một phái đoàn đến thăm Trung tâm Hỗn hợp Giải lý Thương vong ở Honolulu để xem xét kỷ thuật khám phá pháp y nhận dạng bằng các mẫu xương và tóc do người Mỹ thực hiện. Hoa Kỳ hy vọng phương tiện này sẽ thúc đẩy Việt Nam gia tăng tìm kiếm người Mỹ mất tích ở Đông Dương. Theo một người Mỹ tham dự buổi họp kể lại, cuộc họp hết sức nồng ấm và thân thiện. Một quan chức bộ Ngoại giao Việt Nam, Vũ Hoàng, lần đầu tiên đến thăm Hoa Kỳ, rất niềm nở. Ông ta nói với Frank Sieverts, quan chức bộ Ngoại giao phụ trách vấn đề MIA (Người Mỹ mất tích trong chiến tranh) rằng: “Trong đời tôi, chưa bao giờ tôi ngủ ngon như vậy.” Sau khi thăm viếng trung tâm này (JCRC) và thảo luận việc hợp tác, Fred Brown mời Hoàng đi thăm viện Hải Sản (Marine Zoo). Trong khi nhìn cá heo, Hoàng nói nhỏ một tin mới cho Brown. Việt Nam không đòi viện trợ để bình thường hóa quan hệ ngoại giao nữa. Đã lâu mới có một lời phát biểu trực tiếp từ một quan chức Việt Nam sau nhiều lần nói bóng gió khác nhau. Brown thích thú gọi điện thoại báo cho Holbrooke ở Hoa Thạnh Đốn. Holbrooke nói tin đó tốt đấy, và nói thêm rằng ông ta muốn trực tiếp nghe thêm từ phía Việt Nam.
Tuy nhiên, Holbrooke vẫn lạc quan. Trong khi các nhân viên phục vụ tại bộ Ngoại giao phấn khởi một cách kín đáo về khả năng quan hệ với Hà Nội thì những lời tuyên bố công khai của bộ Ngoại giao cho biết tình hình không có gì thay đổi, và Hoa Kỳ chưa chính thức ghi nhận được gì từ phía Việt Nam. Từ khi không còn lịch trình thương nghị, không có dịp nào để Việt Nam chính thức tuyên bố với Hoa Kỳ. Thực ra, Holbrooke đã từ chối lời đề nghị của Hà Nội thực hiện một vòng hội đàm mới ở Paris vào tháng Tám. Sau này, Holbrooke giải thích với tôi là ông ta muốn tránh cái nhìn xoi mói của công luận Paris và yêu cầu gặp Việt Nam một cách lặng lẽ vào tháng Chín ở Nữu Ước, khi Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc họp, đặc biệt là lúc có nguy cơ chiến tranh xảy ra giữa Việt Nam và Trung Hoa. Đó không phải là một hoạt động ngoại giao mở lại các cuộc thảo luận với Hà Nội. Việt Nam cũng vậy, trong khi đưa ra những lời bóng gió, và những bảo đảm riêng có sự uyển chuyển mới của họ, rõ ràng là họ không muốn từ bỏ việc trả giá trước khi có một cuộc gặp mặt đối mặt khác với các nhà thương thuyết Hoa Kỳ. Khi dân biểu John P. Murtha, người tham gia phái đoàn Dân biểu Hạ Viện đến Hà Nội để xem xét vấn đề MIA, ông ta có hỏi khi nào thì Hà Nội từ bỏ điều kiện tiên quyết, Phan Hiền nói có vẽ bí ẩn: “Chúng tôi biết là chúng tôi phải uyển chuyển như thế nào.” Hỏi tới chi tiết, ông ta đùa với Murtha: “Để đó cho các nhà thương thuyết. Đừng làm cho Holbrooke xao lãng công việc của ông ta.” (5)
Dù phía Việt Nam không lấy làm vui vì sự trì hoãn cuộc gặp với Holbrooke, họ vẫn còn tin sẽ có một vòng hội đàm nữa ở Nữu Ước, công việc bình thường hóa sẽ tiến nhanh hơn. Một loạt các cuộc thăm viếng của các thành viên quốc hội tại Hà Nội hồi mùa hè củng cố thêm hy vọng của họ. Phái đoàn quốc hội do dân biểu Sonny Montgomery dẫn đầu đưa ra lời mời thủ tướng Phạm văn Đồng và Phan Hiền qua thăm Hoa Kỳ. Đáp lại, phía Việt Nam trao cho phái đoàn này 15 bộ hài cốt người Mỹ mất tích trong chiến tranh.
Trở về Hoa Thạnh Đốn, Montgomary khuyến cáo chính quyền nên tức khắc mở lại các cuộc thương nghị với Hà Nội để thiết lập hoàn toàn quan hệ ngoại giao và thương mại với Việt Nam. Dân biểu Murtha giải thích một cách tích cực: “Họ rất nôn nóng muốn họp lại. Họ sợ Trung Hoa.”(6) Một toán nguời do thượng nghĩ sĩ Edward Kennedy gởi di, sau khi từ Hà Nội về, mạnh mẽ khuyến cáo nên thiết lập ngoại giao với Hà Nội và gia tăng viện trợ nhân đạo. Bản tường trình của Ủy ban Tư pháp Thượng viện có nói: “Quả là chúng ta đạt tới một quyết định lịch sử trong chính sách ngoại giao của chúng ta... bây giờ chúng ta đang gặp cơ hội hòa bình để có thể đạt được điều chúng ta mưu cầu trong chiến tranh: Bảo vệ quyền lợi của nước Mỹ ở vùng Đông Nam Á bằng cách bảo vệ độc lập cho Việt Nam khỏi bị thế lực nào ở bên ngoài thống trị.”(7) Một thành viên trong nhóm ghi nhận riêng một cách trớ trêu rằng chính Phạm văn Đồng đã nói một câu gần như câu của ngoại trưởng Dean Rusk đã nói trước kia: “Hoa Kỳ cần thiết có mặt ở đây để giúp gìn giữ hòa bình và sự ổn định ở Đông Nam Á.” (8)
Mặc dù Việt Nam lo lắng theo dõi khuynh hướng của Brzezinsky thiên về Trung Hoa nhưng họ cũng tin rằng vì quyền lợi của mình, chẳng bao lâu nữa Hoa Thạnh Đốn sẽ đồng ý thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Rồi với thỏa hiệp ngoại giao ký với Hoa Kỳ ở trong túi, Hà Nội có thể tiến hành ký thêm một thỏa hiệp hữu nghị với Moscow. Thắt chặt với Hoa Kỳ và một thỏa hiệp ký với Liên Xô giúp Việt Nam có được đảm bảo từ hai phía chống lại áp lực Trung Hoa và xúc tiến công việc chuẩn bị chiến tranh với chế độ Pol Pot. Hà Nội không biết rằng khuynh hướng ở Washington bây giờ là quay trở lại chống Việt Nam. Một nhóm phụ tá của tổng thống, cuối tháng Sáu, soạn thảo một kế hoạch để thiết lập ngoại giao hoàn toàn với Trung Hoa vào tháng 12/1978. (9)
Trong bản ghi chép viết ngày 7/ tháng 7/ 1978, Brzezinsky lưu ý Carter quyết định chính họ phải thực thi là với Trung Hoa, chứ không phải Việt Nam. Ông ta viết: “Sự phát triển quan hệ giữa hai nước, chúng ta (Hoa Kỳ và Trung Hoa) sẽ làm cho cán cân quốc tế thay đổi lớn.” Ông ta cảnh cáo rằng tiến tới lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam chỉ là khiêu khích Trung Hoa.(10)
Ngày 5 tháng Bảy, sáu ngày trước khi Hiền công bố quan điểm mới của Việt Nam ở Tokyo, cuộc thương nghị bình thường hóa quan hệ Hoa-Việt bắt đầu ở Bắc Kinh. Vì sự trì hoãn các cuộc họp với Hà Nội, Holbrooke không biết cơ hội của Việt Nam đang khép lại và Trung Hoa được đẩy vào cuộc chạy đua cùng với Việt Nam trong tiến trình bình thường ngoại giao. Hoạt động chống Trung Hoa trong nổ lực bình thường hóa của Việt Nam đối với mọi người đã rõ ràng, tạo ra vài sự chống đối. Bí mật bao trùm toàn bộ những cuộc thảo luận bình thường hóa Hoa-Mỹ được bảo vệ kỹ để chống lại bất cứ dò xét hoặc đối lập chính trị nào.