Thời gian để liên minh
Kể từ chuyến viếng thăm bí mật của Kissinger và chuyến đi lịch sử của tổng thống Richard Nixon hồi tháng Hai năm 1972, quan hệ giữa Trung Hoa và Hoa Kỳ vẫn còn băng giá. Mao Trạch Đông bồn chồn muốn củng cố Trung Hoa để chống lại Liên Xô thù địch đang ngày càng gia tăng, nên nôn nóng muốn thiết lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ. Đó là một phần trong chiến lược “Mặt trận Đoàn kết”, bắt tay với một kẻ thù ít nguy hiểm hơn để chống lại kẻ thù chính là Liên Xô. Đầu năm 1973, các phái bộ liên lạc đã được thành lập ở Hoa Thạnh Đốn và Bắc Kinh. Quan hệ thương mại và văn hóa đã thiết lập xong. Tuy nhiên, những vụ xáo trộn ở Mỹ do hậu quả vụ “xì căng đan” Watergate và cuộc đấu tranh giành quyền lực ở Trung Hoa đã mau chóng làm cho mối quan hệ mới mở này trở nên lạnh nhạt. Trung Hoa đánh giá việc xây dựng quan hệ với Hoa Kỳ như là một chiến lược đối đầu với Liên Xô, là một nổ lực mà Mỹ rất quan tâm để giảm bớt gay cấn với Liên Xô. Đó cũng là điều làm cho người ta kinh ngạc vì sự thất bại của chính quyền Ford, không xúc tiến được đà phát triển mà Nixon đã xây dựng, tiến tới bình thường hóa quan hệ ngoại giao hoàn toàn với Trung Hoa, bỏ rơi Đài Loan.
Tuy nhiên, kể từ đầu năm 1978, một tình trạng hoàn toàn khác biệt nảy sinh ở Trung Hoa, hướng tới Hoa Kỳ. Từ vụ bắt giữ “bè lũ bốn tên” hồi cuối năm 1976, những nhà lãnh đạo có tinh thần thực tiễn và ôn hòa chung quanh Đặng Tiểu Bình tán thành một đề nghị mới nhắm mục tiêu tăng cường hiện đại hóa kinh tế đất nước. Từ tháng Bảy năm 1977, khi Đặng phục hồi quyền lực, không những ông ta mở một chiến dịch triệt hạ chính sách cực đoan ở trong nước mà còn kêu gọi thay đổi chính sách của Trung Hoa đối với thế giới. Ông ta lên án chính sách ngoại giao của Trung Hoa đặt căn bản trên đấu tranh giai cấp rất hẹp hòi.(11)
Trong khi Đặng đề khởi thanh trừng nhóm cực đoan và từ từ củng cố sự hỗ trợ cho chính sách của ông ta ở trong đảng, chính quyền và quân đội, thì quan hệ Hoa-Xô và những rắc rối với Việt Nam càng ngày càng gia tăng, làm cho ông ta thêm lý do để củng cố chính sách ngoại giao thân Tây Phương. Ý kiến thành lập một mặt trận quốc tế chống Liên Xô và đồng minh Việt Nam là một đề nghị mới, được củng cố từ Brzezinsky, cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Carter. Sự tức giận và gây trở ngại của Brzezinsky đối với hoạt động của Liên Xô ở châu Phi, ý của Đặng muốn trừng phạt Việt Nam kéo họ lại với nhau trong một liên minh mà viễn ảnh đã bị mờ nhạt đi vì sự cân bằng quan hệ của Mỹ với các nước Cọng sản tử thù ở Đông Nam Á.
Mặc dù tái lập quan hệ ngoại giao bình thường với Trung Hoa và Việt Nam là một trong những mục tiêu ưu tiên trong chính sách ngoại giao của Carter, một năm sau khi ông ta nhận chức, cả hai nước chứng tỏ sự bình thường quan hệ còn xa mới trở thành hiện thực được. So sánh việc thiết lập ngoại giao với Việt Nam và chính thức với Trung Hoa, quả thật có khó khăn và phức tạp. Hoa Kỳ có thể lập quan hệ với Hà Nội chỉ khi nào Hà Nội bằng lòng giúp tìm kiếm người Mỹ mất tích và từ bỏ điều kiện tiên quyết. Tuy nhiên, việc chuyển từ phái bộ liên lạc đã có từ năm 1973 lên hàng đại sứ đòi hỏi sự nhượng bộ của Hoa Kỳ. Trung Hoa từ chối thiết lập ngoại giao bình thường nếu Hoa Kỳ không cắt đứt ngoại giao với Đài Loan và thủ tiêu hiệp ước phòng thủ với nước này. Trong cuộc họp với tổng thống Carter hồi tháng Hai/1977, trưởng phòng liên lạc của Trung Hoa ở Hoa Thạnh Đốn, đại tướng Huang Zhen thẳng thừng từ chối lời mời của tổng thống Carter, mời nhà lãnh đạo Trung Hoa sang thăm Hoa Kỳ, trong khi còn tòa đại sứ Đài Loan ở Hoa Thạnh Đốn. Tổng thống Carter cũng giận. Ông viết trong hồi ký là người Tàu “vẫn còn tự coi mình là người của “Trung Quốc” (Middle Kingdom) -trung tâm nền văn minh thế giới, đơn giản họ chỉ ngồi chờ người khác đến thừa nhận ngôi vị của mình.” (12)