Kẻ hở của tòa Bạch Ốc
Mặc dù cáu giận như vậy, tới giữa năm 1977, Carter cũng đi tới kết luận là ông ta sẽ thỏa mãn yêu cầu của Bắc Kinh, - “Vấn đề nguyên tắc”, nếu những phương cách ấy có thể duy trì được quan hệ không chính thức với Đài Loan, và bảo đảm các cuộc thương nghị, nhằm đem lại một giải pháp hòa bình giữa Trung Hoa lục địa và Đài Loan. Ông ta cũng quyết định xúc tiến công việc một cách chậm rãi, từng bước một, để buộc Trung Hoa chấp thuận những điều Mỹ quan tâm. Tháng Tám/1977, một tháng sau khi Leonard Woodcock giữ nhiệm vụ trưởng phái bộ liên lạc Hoa Kỳ ở Bắc Kinh, bộ trưởng Ngoại giao Cyrus Vance tới Bắc Kinh để cố gắng thu hẹp khoảng cách dị biệt giữa Mỹ và Trung Hoa. Ông ta đề nghị công nhận nước Cọng hòa Nhân dân Trung Hoa là chính phủ hoàn toàn hợp pháp và “vô hiệu hóa” thỏa hiệp phòng vệ Mỹ-Đài Loan, coi như không còn cần thiết nữa. Vance nói với bộ trưởng ngoại giao Trung Hoa Hoàng Hoa: “Đối với chính phủ Hoa Kỳ, vấn đề nhân viên còn lại ở Đài Loan là một hình thức điều đình”. (13)
Mặc dù đề nghị của Vance tuồng như là một sự thoái bộ đối với chính sách của Ford và Kissinger trước kia: “Hai nước Trung Hoa.” Hoa Kỳ vẫn duy trì một tòa đại sứ ở Đài Loan, ngoại trừ danh xưng. Trung Hoa cũng không phản đối. Vance bị ám ảnh mạnh mẽ rằng chính sách đó không hẵn là chính sách cuối của Mỹ nhưng ông ta có thể đề nghị với Trung Hoa một chính sách uyển chuyển hơn mà ông có mang theo. Tuy nhiên, ông ta không vội vàng và rõ ràng Trung Hoa cũng chưa sẵn sàng để lập quan hệ bình thường. Trung Hoa cũng không muốn coi chuyến đi này của Vance là một sự thất bại. William Gleysteen, chuyên viên hàng đầu của bộ Ngoại giao về vấn đề Trung Hoa, tháp tùng Vance trong chuyến đi này, nhớ lại rằng Trung Hoa quan tâm đến việc làm thế nào có thể đưa ra một công thức trước cuộc gặp gỡ báo chí. Từ Washington có tin nói Trung Hoa thay đổi bất ngờ trong các cuộc đàm phán, làm hỏng thỏa ước mỏng manh này. Đặng nổi nóng trả đủa bằng cách nói với một nhóm bỉnh bút báo chí Mỹ rằng kết quả phái đoàn Vance đem lại là làm thoái bộ quan hệ Mỹ-Hoa. Sự tố cáo công khai bất thường này làm tê liệt các nổ lực ngoại giao. Có lẽ, quan trọng hơn, là giai đoạn mở đầu cuộc đấu đá vì chính sách Trung Hoa giữa người đứng đầu ngành An ninh Quốc gia, Zbigniew Brzezinsky và bộ Ngoại giao - một sự xung đột có hậu quả sâu xa đối với châu Á.
Tin xì ra từ tòa Bạch Ốc có hậu quả đối với phản ứng của Đặng, làm cho Vance nghi ngờ rằng có cố gắng nào đó làm hỏng công việc của ông. Con người nói năng dịu dàng và bao giờ cũng lịch sự, Cyrus Vance, ít dấu diếm tình cảm, khi ông ta kể nhiều điều về “chuyến đi thất bại” của ông ở Trung Hoa. Ba năm sau ông ta nói với tôi: “Chúng tôi hết sức thành công trong các cuộc đàm phán. Nhưng rủi thay, có ai đó ở Hoa Thạnh Đốn xì tin ra. -Chính là ai đó ở tòa Bạch ốc. Tôi bối rối lắm. Tôi biết những cuộc nói chuyện với Đặng hết sức nhạy bén, nhưng có gì bị tiết lộ ra, sẽ làm hại cho các cuộc đàm phán.” (14)
Brzezinsky từ chối, không cho rằng Hội đồng An ninh Quốc gia là nơi tiết lộ tin đó. Trung Hoa phản ứng với Vance. Ông ta giải thích”họ thấy họ chuẩn bị không đủ nhanh để lập quan hệ bình thường và cũng thấy rằng họ không đủ cứng rắn với Liên Xô.”(15)
Trong khi những tin tức xì ra ở Hoa Thạnh Đốn đưa tới những lời tố cáo công khai, một yếu tố khác nữa trong lời nói cứng rắn của Đặng là Trung Hoa thấy được Hoa Thạnh Đốn, -nói riêng là Vance, rất muốn giảm thiểu căng thẳng với Liên Xô và đạt tới thỏa ước hạn chế chạy đua vũ trang nhờ bình thường hóa quan hệ với Trung Hoa. Trong nội bộ, Đặng mới phục hồi quyền lực, và thấy con đường ông ta tiến hành là phức tạp và chính sách của ông là phải đối đầu với những phần tử trung thành với Mao, chẳng hạn như chủ tịch đảng Hoa Quốc Phong. Bằng cách công khai tố cáo Hoa Kỳ gây sức ép đòi hỏi Trung Hoa phải uyển chuyển về vấn đề Đài Loan, Đặng cũng tạo được sự thành thật đứng đắn như các nhà yêu nước và cứng rắn trước những người đối lập tả phái.
Từ cuối năm 1977, Brzezinsky quan tâm về Liên Xô bành trướng ở Châu Phi, gia tăng chống phá bình thường quan hệ với Trung Hoa là kẻ đối đầu với Moscow. Ông ta cũng bắt đầu “bắn lén” vào cố gắng của Vance và Holbrooke khi hai người này tiến hành bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, nước mà ông ta xem chỉ có tính cách quan trọng ngoại vi.(16) Trong một bản lưu ý gởi cho Carter hồi giữa tháng 11, Brzezinsky lưu ý rằng quan điểm chính trong chính sách ngoại giao của ông ta là “mềm mỏng” với Cu-Ba, Việt Nam, SALT và Korea. (17)
Brzezinsky chống lại việc Vance không quan tâm và thúc đảy nhanh bình thường hóa quan hệ với Trung Hoa vì nó có ảnh hưởng đến việc hoàn tất thỏa hiệp SALT. Ông ta cho rằng nếu Liên Xô cư xử vụng về ở một nơi nào đó trên thế giới, thì Liên Xô có thể không ràng buộc vào SALT. Tại sao Hoa Kỳ quá nể vì Moscow khi Hoa Kỳ tiến hành bình thường hóa quan hệ với Trung Hoa. Thực ra, theo quan điểm của ông ta, hợp tác Mỹ-Hoa có thể làm cho Liên Xô hiểu được tính cách quan trọng của sự vị nể và hỗ tương của hai bên. Có thể đó là “đáp ứng có tính cách chiến lược” của Hoa Thạnh Đốn đối với điều Moscow gọi là “lợi dụng sự căng thẳng để cải thiện vị trí chiến lược và địa lý chính trị của Liên Xô” ở Trung Đông và vùng Sừng Châu Phi. Ý nghĩ việc xử dụng lá bài Trung Hoa nảy sinh.
Qua Michel Oksenberg, Brzezinsky bắt đầu nài nỉ Trung Hoa gởi giấy mời cho chính ông. Như Oksenberg e ngại, Trung Hoa quyết định “lợi dụng ngay sự cạnh tranh giữa ban tham mưu của Hội đồng An ninh Quốc gia và bộ Ngoại giao mà Kissinger đã tập tành để thúc đẩy chính sách của Mỹ đối với Trung Hoa tiến tới”. Trung Hoa quay lại với những quan chức có quan điểm thế giới gần gủi với quan điểm của chính họ. (18)
Trung Hoa gởi lời mời Brzezinsky hồi đầu tháng 11/1977. Điều đó làm lộ rõ sự căng thẳng giữa ông ta và Vance. Vance mạnh mẽ thúc đẩy Carter không thuận cho Brzezinsky thực hiện chuyến đi này, vì nếu Brzezinsky đi Trung Hoa, sẽ cắt đứt những cố gắng của bộ Ngoại giao về vấn đề quan hệ với Trung Hoa. Nhưng Brzezinsky nhờ gần gủi với phòng bầu dục của tổng thống nên có nhiều cơ hội phản ứng mạnh mẽ việc Carter ngăn không cho ông ta đi Trung Hoa. Ông ta cũng nhờ bộ trưởng Quốc phòng Harold Brown vận động với tổng thống giúp ông. Cuối cùng, giữa tháng Ba, Carter đồng ý và bỏ qua đề nghị của Vance.
Carter cho Brzezinsky quyền thảo luận một chiến lược rộng rãi với Trung Hoa và tìm cách thiết lập quan hệ ngoại giao trên chiều hướng đó. Tuy nhiên, Hoa Kỳ được ủy thác thực hiện một chiến lược, mà sự cân bằng của nó do Vance theo đuổi đã bị phủ nhận: Vance là người đầu tiên đề xướng bình thường hóa với Trung Hoa, do chính quyền lợi của Trung Hoa chứ không phải là một phần trong chiến lược chống Liên Xô. Trong một bản tường trình gởi tới tổng thống ngày 5 tháng Mười/1978, Vance yêu cầu thiết lập quan hệ bình thường với Trung Hoa trước cuối năm. Ông ta cho rằng các cuộc đàm phán nhạy bén về SALT lúc đó đang diễn ra với Liên Xô đang được dấu kín. Trình bày thỏa hiệp bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Trung Hoa trước Quốc hội, trước khi đạt được thỏa hiệp về hiệp ước SALT, theo sự tính toán của ông ta có thể làm tăng thế mạnh của chính phủ và việc phê chuẩn hiệp ước kiểm soát vũ khí. Điều cuối cùng Vance muốn thấy là sự phô trương của Mỹ về việc xử dụng lá bài Trung Quốc trước mặt Moscow. Ông ta ghi lại trong hồi ký, “Tôi được thuyết phục là nếu thất bại trong cuộc thảo luận về việc “xử dụng lá bài Trung Hoa”, luôn luôn là trò nguy hiểm, là một sự hên xui đặc biệt, nhất là vào lúc đó, khi chúng ta ở vào thời điểm nhạy bén trong cuộc thảo luận về thỏa hiệp SALT”. (19)
Tuy nhiên, Vance không biết Brzezinsky bắt đầu ve vãn Trung Hoa để Trung Hoa trở thành một thành viên chiến lược chống Liên Xô. Tháng Hai/1978, Brzezinsky bắt đầu một loạt những cuộc họp với Han Xu, quyền trưởng phái bộ liên lạc của Trung Hoa ở Hoa thạnh Đốn, qua đó ông ta đưa ra nhiều quan điểm về chính sách đối với Moscow, trên căn bản, khác với quan điểm của Vance. (20)
Trước khi rời Bắc Kinh, Brzezinsky bảo đảm thỏa ước bằng cách chỉ rõ chữ ký của Carter trên bản chỉ thị của tổng thống mà ông ta và Oksenberg đã soạn thảo.
Hậu quả đúng của tình hình mới là quốc tế hóa cuộc xung đột Hoa-Việt và Hoa Kỳ đứng về phía Trung Hoa. Mối quan hệ với Trung Hoa, như bản chỉ dẫn nói, là một bề mặt nhỏ bé trong chính sách toàn cầu của Mỹ. Mỹ và Trung Hoa được xem là hai quốc gia song song, cùng quan tâm tới chiến lược trường kỳ, và quan trọng nhất là “cùng chung vị trí chống bá quyền khu vực và thế giới từ bất cứ một thế lực đơn lẻ nào.” Dẫu đằng sau câu nói bí ẩn đó là dấu hiệu cho Bắc Kinh hay rằng Hoa Thạnh Đốn rất thông cảm những khó khăn của Bắc Kinh với Liên Xô và Việt Nam, bị Bắc Kinh tố cáo là 'bá quyền địa phương.” Bản chỉ dẫn cũng bao gồm những lời nói với Trung Hoa rằng Hoa Kỳ quan tâm chính sách của Liên Xô muốn “dùng Việt Nam để bao vây Trung Hoa” (Một ngày nào đó có thể bao gồm luôn cả Đài Loan).