Một mùa Giáng sinh đỏ
Ngày 6 tháng Giêng/1979, đại sứ Lào Khamphan Vilachit trải qua một đêm không ngủ. Sáu thành viên trong bộ tham mưu của ông cũng vậy. Chiến tranh tuồng như đang đến gần, hết sức nguy hiểm. Sự im lặng chết chóc thường bị quấy động vì tiếng đại bác và tiếng dội ầm ỉ của nó trong thủ đô vắng lặng. Các khung cửa sổ dội tiếng đạn kêu lách cách. Khamphan nghĩ rằng chiến tranh đang tới, nhưng chưa bao giờ ông nghĩ nó đến nhanh như vậy.
Ông ta biểu nhân viên cầu Phật. Xa gia đình và xa nhà, sống nơi xa xôi này, nơi họ sống chung với nhau, những người trẻ này hầu như trở thành trẻ con. Tuy nhiên, không phải thuộc những người chính thống Cọng sản, và có cách sống hết sức tự nhiên, chắc chắn ông ta có thể xoay xở được dưới mọi hoàn cảnh. Ông ta như sống trong một hòn đảo hoang vậy. Từ ngày 2 tháng Giêng, chỉ có tòa đại sứ Lào là nhóm độc nhất còn lại trong thành phố ma ám, chờ giờ phút cuối cùng của thủ đô. Tại những giờ phút như thế, chẳng có gì ngạc nhiên khi họ quay trở lại với lời dạy của Phật tổ về con đường đi tới Niết bàn để thoát khỏi vòng luân hồi.
Khamphan cảm thấy không thoải mái khi được gởi đi làm đại sứ nước Xã hội Chủ nghĩa Lào tại quốc gia cực đoan nhất thế giới này. Khamphan là người to con, trán rộng và có nụ cười e lệ, được chọn làm đại sứ Lào ở Kampuchua Dân chủ không phải vì lòng tin cách mạng nhưng vì ông nói rành tiếng Khmer và có quan điểm tĩnh tại về cuộc sống. Sự bình tĩnh là điều hết sức cần thiết cho sự sống còn của thành phố Phnom Pênh dưới chế độ Pol Pot. Người tiền nhiệm của ông là một cán bộ cách mạng trẻ. Ông này gần như hoàn toàn không thể chịu đựng nổi sau một năm sống cô lập ở Phnom Pênh. Ông ta yêu cầu được về gấp -một việc chẳng có nghĩa lý gì dưới chế độ Khmer Đỏ ở Kampuchia cả. Mỗi tháng chỉ có một chuyến bay đi Vạn Tượng. Nhà ngoại giao này trở về Lào bằng thuyền, đi ngược sông Mekông. Chuyến đi kéo dài một tuần lễ.
Trước đây bốn mươi năm, Khamphan đã ở Kampuchia, khi ông là chú tiểu tu ở Học viện Phật giáo Phnom Pênh. Sau này lớn lên, có một thời gian dài ông làm nhân viên chính quyền và thị trưởng thủ đô hoàng gia Luang Prabang. Đó cũng là một trung tâm quan trọng nhất đối với việc tu học đạo Phật ở trong nước. Ông ta không bao giờ nghĩ là sẽ trở thành một nhà ngoại giao và chắc chắn không phải là ở một quốc gia tuyên chiến với tôn giáo. Nhưng ông ta không thể từ chối lời yêu cầu của Chính phủ Cách mạng Nhân dân Lào. Điều đó chứng tỏ sự khoan dung quá mức của đạo Phật.
Sau tám năm vắng mặt, ông lại trở lại Kampuchia. Phong vị của một thành phố đáng yêu theo kiểu Pháp không còn nữa. Ngoại trừ một ngôi chùa gần lâu đài hoàng gia, những lâu đài khác, hoặc bị bỏ hoang hoặc trở thành vựa thóc hay xưởng làm nước mắm. Các tu sĩ đều bị bắt hoàn tục, bị giết hay đi lao động ở vùng quê. Khmer Đỏ tự hào cho Khamphan xem một cuốn phim, qua đó, các cựu tu sĩ làm việc lao động cực nhọc như súc vật hoặc kéo cày ngoài ruộng.
Ở Kampuchia, giá trị con người hết sức thấp. Sáng ngày Chủ nhật 7 tháng Giêng, đời người không hơn gì một phút dù du, như giọt nước trên lá sen. Ông ta nghe đài ngoại quốc nói quân đội Việt Nam đang mở cuộc xâm lăng Kampuchia. Tiếng súng nổ rất gần khiến ông ta nghĩ rằng tình hình còn nghiêm trọng hơn cả tin tức trên đài phát thanh. Sự nguy hiểm còn rõ hơn vì họ là đoàn ngoại giao độc nhất còn lại ở Phnom Pênh. Đường giây liên lạc mật mã với Vạn Tượng cũng đã chết ngủm cách đây sáu ngày. Trả lời bức điện mừng năm mới của ông, về sự bất an ở đây, bộ trưởng Ngoại giao Lào ở Vạn tượng khuyến cáo họ đừng sợ và nên ở lại. Điều họ có thể làm được từ hôm nhận bức điện ấy rõ ràng là chẳng có cách nào thoát ra khỏi Phnom Pênh. Sau này ông ta biết là người hiệu thính viên ở bộ Ngoại giao Lào bị tiêu chảy đúng vào tuần lễ có cuộc chiến căng nhứt ở Phnom Pênh.
Đêm 2 tháng Giêng, một nhân viên đại sứ đánh thức ông dậy. Người này lo lắng báo cáo cho ông hay: “Khmer Đỏ đang di tản hầu hết nhân viên ngoại giao. Tuồng như họ chẳng hỏi han gì chúng ta.” Trời lúc ấy có trăng. Qua cửa sổ, ông ta thấy nhiều biến động trên đường phố do việc di tản các nhân viên ngoại giao. Binh lính Khmer Đỏ bận rộn chất hàng hóa dụng cụ của nhân viên ngoại giao đoàn lên xe tải, trong khi họ sẵn sàng ngồi trong xe hơi của họ. Một nhân viên tòa đại sứ Lào hỏi người lính gác Miên: “Có chuyện gì vậy? Đồng chí!.” Vì lý do an ninh, các cơ quan ngoại giao được chuyển đi Battambang. Anh ta trả lời, rồi nói thêm là tòa đại sứ Lào không có lệnh đi. Rõ ràng là Pol Pot muốn bắt giữ đồng minh của Việt Nam làm con tin ở tại thủ đô để ngăn ngừa việc tàn sát.
Quyết định triệt thối của Khmer Đỏ đã rõ. Buổi sáng ngày 2 tháng Giêng, đại sứ Nam Tư Mihailo Lompar tới thăm Pol Pot và trao cho ông ta một món quà là thuốc men của hội Hồng Thập tự Nam Tư gởi tặng. Pol Pot tin tưởng mạnh mẽ rằng cuộc xâm lăng của Việt Nam bắt đầu hồi cuối tháng Chạp sẽ bị đánh bại. Nhưng buổi chiều hôm đó, một cán bộ Ngoại giao ngần ngại báo cáo với ông đại sứ rằng ông ta phải “tạm thời di tản” khỏi thủ đô. Lompar nghĩ rằng đây chỉ là sự chuẩn bị hờ mà thôi. Tuy nhiên, khi người cán bộ nói: “Ông phải rời ngay đây trong khoảng một tiếng đồng đồ.” thì Lompar thấy vẽ kinh hãi trong mắt người cán bộ Khmer. Có phải vậy là chấm dứt chế độ Kampuchia Dân chủ? Trong vòng mấy tiếng đồng hồ, một đoàn dài gồm xe tải và xe du lịch chở tất cả đoàn ngoại giao, ngoại trừ Lào, hướng về Battambang. Đại sứ Lompar gặp đồng nghiệp Trung Hoa, ông Sun Hao, con người thường vui vẻ. Ông này hết sức khó chịu. Việc triệt thoái làm cho ông ta kinh ngạc.
Sau khi trãi qua một đêm ở Battambang, các đoàn đaị sứ Nam Tư và Trung Hoa quay lại Phnom Pênh bằng đường bộ. Đã có sắp xếp đưa hai đoàn này ra khỏi Kampuchia bằng máy bay đi Bắc Kinh. Ngày 6 tháng Giêng, súng nổ gần thủ đô hơn, vài trăm người Khmer và Trung Hoa chờ máy bay ở phi trường Pochentong. Với ngoại lệ đáng kể do Pol Pot chỉ thị, tất cả các nhà lãnh đạo Khmer Đỏ đều có mặt. Ai nấy mặt mày nghiêm nghị. Lompar biết ngay tại sao họ có mặt ở đây: Ông nhận ra khuôn mặt quen nhưng đã lâu không gặp của ông hoàng Sihanouk. Những người chủ Khmer Đỏ đều có mặt ở đây để miễn cưỡng tiễn ông Hoàng ra đi. Năm ngoái, Lompar yêu cầu được thăm ông hoàng vì ông là bạn cũ của Jozip Broz (Thống chế Tito) nhưng bị từ chối khéo. Cuối cùng, việc giam giữ ông hoàng qua rồi. Ieng Sary tới gần đại sứ Nam Tư xin lỗi một cách lịch sự. Còn rất nhiều người chờ chuyến bay nhưng tòa đại sứ của họ chỉ đưọc dành cho có 4 chỗ. Sary nói với ông ta như vậy. Cả đại sứ Trung Hoa và Nam Tư chọn ở lại để dành chỗ cho các người đang chờ.
Đến trưa, chiếc phi cơ sơn màu xanh bạc Boeing 707 của hãng Hàng không Trung Hoa hạ cánh. Sihanouk đầm đìa nước mắt - ông vui vì bây giờ ông được tự do thật sự, nhưng buồn vì thêm một lần trốn chạy khỏi quê hương. Ông ta ôm lấy đại sứ Nam Tư và nói bằng giọng nghẹn ngào: “Cho tôi gởi lời chào thống chế Tito và thưa với ông ta rằng nhân dân chúng tôi không bao giờ đầu hàng.” Sau khi máy bay cất cánh, hai ông đại sứ lại lên đường đi Battambang.
Từ sáng sớm ngày 7 tháng Giêng, khu vực chung quanh nhà ga Phnom Pênh rất xáo trộn. Hàng ngàn đàn ông, đàn bà và trẻ em - cán bộ chính quyền và gia đình họ sống ở những trại bên ngoài thủ đô, -chạy tới đây bằng xe tải, xe gắn máy và xe đạp. Nhưng không đủ chỗ cho họ: Hai toa tàu trên sân ga đầy nhóc thương binh và những nhân viên dân sự đang lo sợ kinh hãi. Ieng Sary, con người thường gây rắc rối và cán bộ bộ Ngoại giao của ông đang cố gắng trấn an đám đông, dành thêm chỗ cho thương binh. Dưới ánh nắng gay gắt, phòng ốc dần dần trở thành cái lò. Sau 9 giờ một chút, tin điện đưa tới báo cho Ieng Sary biết một đạo quân Việt Nam cách thủ đô có ba dặm. Ieng Sary ra lệnh khởi hành. Hàng trăm người tuyệt vọng ngồi trên nóc toa, đeo vào thành cửa. Chuyến tàu cuối cùng hết sức hỗn độn rời khỏi sân ga, hướng về Battambang.
Ngồi trên sân thượng tòa đại sứ, Khamphan lấy làm lạ tại sao mọi sự chấm dứt. Từ bình minh lửa cháy ầm ầm cùng với tiếng súng nổ. Khoảng mười giờ sáng, một chiếc xe Jeep lái vào tòa đại sứ đang bị canh giữ để đón những người lính cuối cùng đang đứng gác. Trước khi rời đi, một người trong bọn họ bất thình lình bắn một loạt đạn AK-47. Chẳng ai bị thương. -Một nhân viên Lào đang đứng nhìn nơi của sổ bỗng cúi đầu xuống như vịt. Nhưng một viên đạn trúng vào chân dung thủ tướng Kaysone và hai khung cửa kiếng bể rơi xuống đất.
Thành phố ma quái ngày trước bây giờ gần như điên dại. Thỉnh thoảng, những chiếc xe tải do Trung Hoa chế tạo chất đầy người chạy xuống đại lộ Monivong với một tốc độ khủng khiếp. Tiếng đại pháo nổ đều đặn bị át đi bởi tiếng trực thăng ầm ầm, tiếng cánh quạt ù ù, làm xáo động không khí buổi sáng sớm. Máy bay vội vàng biến mất ở chân trời phía tây. Có phải Pol Pot ở trên đó? Khamphan tự hỏi như vậy. Đứng trên sân thượng tòa đại sứ Lào, ông ta chứng kiến thời điểm chấm dứt một giai đoạn. Khoảng trưa, ông nhận ra những tiếng động mạnh khác thường. Ông nhìn xuống. Ở cuối đường, khoảng nằm giữa những khu nhà cao tầng ở hai bên đại lộ Monivong là con đường chính của thành phố Phnom Pênh: Nhiều chiến xa nối đuôi nhau, mang cờ đỏ vàng bay phất phới, khói xe màu xanh nhạt tỏa lên không. Quân Việt Nam đang tới. Ông gọi to nhân viên trong tòa đại sứ: “Treo cờ lên! Treo cờ lên.”
Một giờ sau, bí thư thứ hai của tòa đại sứ bước ra đường, nồng nhiệt ra dấu cho một toán nhỏ quân tuần tiểu Việt Nam đang đi xuống đại lộ vắng tanh. Ngạc nhiên vì tiếng gọi của ông, họ đưa súng về phía đó. Ông ta vội đưa tay lên quá đầu. Khi họ tới gần, ông ta giải thích với một người Khmer độc nhất trong nhóm biết rằng ông ta là nhà ngoại giao Lào, rồi chỉ vào tòa đại sứ. Tối ấy, khoảng một chục binh lính Việt Nam đến canh giữ tòa đại sứ. Cơn ác mộng đã qua. Khamphan phấn khởi, ra lệnh mở tiệc với cơm và thịt hộp thết đãi những người đến giải phóng họ. (1)