← Quay lại trang sách

Hiệp ước hữu nghị, chẳng có ai

Trong khi những nhà ngoại giao Lào và những người lính mới đến canh giữ tòa đại sứ mở tiệc mừng thì thế giới ngạc nhiên. Chỉ có hai tuần lễ, Việt Nam đã đè bẹp nước Xã hội Chủ nghĩa láng giềng, lật đổ quyền lực đồng minh độc nhất của Trung Hoa ở Đông Nam Á. Thời điểm cuối cùng đã tới sau nhiều tháng ngoại giao căng thẳng và chuẩn bị quân sự ở cả hai phía Việt Nam và Trung Hoa. Thỏa hiệp Việt-Xô xảy ra tiếp sau Hoa-Mỹ bình thường quan hệ ngoại giao, sự kiện này lại đưọc tiếp nối bằng việc Việt Nam xâm lăng Kampuchia và Trung Hoa xâm lăng Việt Nam. Trong vòng ba tháng, bản đồ chính trị châu Á vẽ lại bằng những đổi thay bi thảm.

Trong tiến trình trục xuất Hoa kiều ra khỏi Việt Nam hồi mùa hè năm 1978, Việt Nam cố gắng vẽ ra một nước Trung Hoa như là mối đe dọa cho toàn vùng Đông Nam Á. Đồng thời, họ cố gắng một cách tuyệt vọng để củng cố quan hệ với các nước Đông Nam Á, kiếm tìm thông cảm, ủng hộ họ chống lại Trung Hoa và Kampuchia. Trong việc này, họ thực hiện một điều trở trái làm mặt vì họ đã từng khinh miệt các nước trong Hiệp hội Đông Nam Á,(ASEAN). Hồi năm 1967, trong khi Việt Nam CS đang chống lại Hoa Kỳ, đảng Cọng sản Việt Nam thường ngày gọi các nước ASEAN “là sản phẩm của chính sách đế quốc Mỹ nhằm can thiệp và xâm lược.” (2)

Nhưng giữa năm 1976, Hà Nội yêu cầu các nước ASEAN hãy thiết lập quan hệ bình thường và hợp tác với Hà Nội dù cho vẫn còn một khoảng cách.

Tuy nhiên, chủ trương của Hà Nội đối với các nưóc ASEAN có khuynh hướng thân Tây phương đành phải lặng lẽ gác lại khi xung đột Hoa-Việt lên cao. Bắc Kinh và Hà Nội bắt đầu tranh giành gay gắt “trái tim và khối óc” của các nước ASEAN. Tháng Sáu/1978, khi Việt Nam bắt đầu oanh tạc hạn chế khu vực ở Kampuchia, khoảng ba chục phi vụ một ngày, họ tuyên bố sẵn sàng hợp tác với khối ASEAN, -đến bây giờ vẫn còn khăng khăng từ chối. Tháng Bảy/1978, Phan Hiền đi thăm Mã Lai và tuyên bố ủng hộ hòa bình và trung lập khu vực này.

Tháng Chín/1978, thủ tướng Phạm văn Đồng thực hiện chuyến đi thăm lịch sử, ve vản các nước chống cọng Đông Nam Á. Trong một hành động đặc biệt đối với Mã Lai chống Cọng, Đồng đến đặt vòng hoa tại đài tưởng niệm các chiến sĩ trận vong trong cuộc tiểu trừ Cọng sản nổi loạn. Ông ta còn xin lỗi riêng với các nhà lãnh đạo Mã Lai vì Hà Nội đã viện trợ cho cuộc nổi loạn này, cuộc nổi loạn đã bị bỏ rơi vì “sự thông cảm bị sứt mẻ”. Ở Bangkok, Đồng bảo đảm với thủ tướng Thái Lan là Việt Nam không ủng hộ đảng Cọng sản Thái Lan (CPT), xác nhận đó là đảng phi pháp. Thực ra, nhà lãnh đạo Việt Nam khẩn khoản muốn ký một thỏa ước thân hữu và hợp tác với các nước trong khối ASEAN để hợp thức hóa một tiến trình mới, xích lại gần nhau hơn. Đề nghị đó bị nhóm này từ chối một cách lịch sự, họ quyết định không ký kết bất cứ một thỏa ước chính thức nào với Việt Nam. Thực ra, họ có ký một bản thông cáo chung ít quan trọng hơn, giao kết tình trạng hữu nghị giữa các nước này với Việt Nam.

Cố gắng của Việt Nam nhằm lôi kéo Thái Lan vào liên minh chống Trung hoa cũng bị thất bại. Trong khi Kriangsak và Đồng ký thông cáo chung chủ trương không “thực hiện những cuộc lật đổ, trực tiếp hay gián tiếp, để chống đối lẫn nhau và xử dụng lực lượng để đe dọa hay chống đối nhau” thì Thái Lan từ chối đề nghị của Việt Nam gài thêm danh từ “nước thứ ba” xử dụng lãnh thổ của mỗi bên nhằm mục đích thù địch. Điều này là để đả kích Trung Hoa hiện đang xử dụng Kampuchia trong mưu đồ chốngViệt Nam.

Việc các nước ASEAN từ chối ký thỏa hiệp thân hữu làm cho Hà Nội phải đảo lộn kế hoạch dùng lá chắn ngoại giao đối với hành động quân sự mạo hiểm của họ ở Kampuchia. Với sự ngây thơ đáng ngạc nhiên, Việt Nam hy vọng đề nghị ký thỏa ước của họ sẽ triệt tiêu nỗi sợ hãi về chủ nghĩa bành trướng của Việt Nam, và là một bằng chứng lòng thành thực của họ đối với quan hệ hữu nghị vớI các nước ASEAN, dù cho họ có những hành động quân sự ở Kampuchia. Một loạt thỏa ước hữu nghị với các nước láng giềng và bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ là điều các nhà lãnh đạo Hà Nội tính toán, giúp Hà Nội giải trừ được lo ngại khi họ tiến tới ký thỏa ước với Moscow.

Quá trình ngoại giao do Việt Nam thực hiện mau lẹ hồi mùa thu có liên hệ chặt chẽ với thời biểu tính toán hoạt động quân sự của họ. Cuối mùa hè 1978, khi Hà Nội đề nghị chuyến viếng thăm của Đồng tới các nước trong khối ASEAN, các nước này ngạc nhiên vì Việt Nam muốn thực hiện chuyến viếng thăm đó không trễ hơn tháng Mười. Nhiều nhà ngoại giao khối ASEAN cho rằng Việt Nam muốn giành trước chuyến đi thăm của phó chủ tịch Đặng Tiều Bình tới Thái Lan và Tân Gia Ba sẽ diễn ra vào tháng Mười một. Chẳng phải chỉ là vấn đề thời biểu của các cuộc thăm viếng này. Hà Nội cũng gây áp lực lớn với một vài nước ASEAN để đạt đưọc thỏa hiệp hữu nghị. Các nhà ngoại giao Mã Lai ở Hà Nội -từ bí thư thứ hai của đại sứ -được những người đối thoại phía Việt Nam báo cho biết nếu chuyến đi của Đồng thất bại, Việt Nam sẽ cứu xét lại chính sách ngoại giao của họ.(3) Dù việc “thành công” đó không được xác định rõ, như Việt Nam đã nói trong khi đề nghị ký thỏa hiệp thân hữu, bên kia nửa địa cầu, tại Nữu Ước, bộ trưởng ngoại giao Việt Nam, thúc đẩy chính phủ Hoa Kỳ tiến nhanh hơn trong việc ký một bản thông cáo chung về việc thiết lập quan hệ ngoại giao hai bên.

Nhìn chung, công việc ngoại giao của Việt Nam được xúc tiến nhanh có lẽ là do quyết định tiến vào Kampuchia vào mùa khô bắt đầu vào tháng Chạp. - Đất đai cứng để chiến xa có thể di chuyển được và vụ mùa thu hoạch xong có sẵn lương thực cho quân kháng chiến Kampuchia do Hà Nội huấn luyện từ đầu năm 1978. Thời điểm xâm lược không thể quá kề cận với ngày ký thỏa ước với Liên Xô vì nó có thể tạo ra ấn tượng vai trò Liên Xô trực tiếp và chỉ đạo trong cuộc phiêu lưu ở Kampuchia hơn là do Hà Nội muốn cho mọi người thấy chính họ mới là chủ động. Điều này cũng làm cho Hà Nội mau lẹ thực hiện thỏa uớc ký với Moscow hồi mùa thu, việc bình thường quan hệ với Hoa Thịnh Đốn và ký hiệp ước thân hữu với các nước ASEAN trước khi mọi việc xảy ra ở Kampuchia. Trong khi tìm cái dù che Liên Xô, Việt Nam cũng tìm kiếm bảo đảm từ các cửa ngõ khác của Tây phương, không đóng sầm lại vì sự xung đột với Trung Hoa và Kampuchia, không thể làm cho Việt Nam bị cô lập. Việt Nam có lẽ cũng tính toán việc củng cố vị trí ngoại giao, tăng cường thế mạnh của họ khi nói chuyện với Liên Xô.