Tiệc tùng chấm dứt
Quan sát mọi mặt, khung cảnh ngày cuối cùng của thành phố Phnom Pênh trông giống như trong một cuốn phim của Fellini. Độc nhứt chỉ còn bệnh viện hoạt động đầy đặc thương binh từ mặt trận chuyển về. Hàng trăm người nằm trong sân và trên những con đường chung quanh bệnh viện, đầy máu và ruồi. Họ kêu la hấp hối. Các nơi khác trong thành phố lúc này người ta tiệc tùng kỷ niệm. Mùa cá truyền thống bắt đầu từ cuối tháng Chạp và đầu tháng Giêng khi các đăng lưới cá đặt trên sống Tonle Sap thu hàng tấn cá. Buổi sáng ngày 6 tháng Giêng hai chiếc xe tải đầy cá được chở tới trại “Bar 30”, một khu trại của các cán bộ trẻ và gia đình họ. Đối với những người dân gần chết đói cả tháng nay, hình ảnh những chiếc xe chở đầy cá như thế làm họ phấn khởi. Tức thì không khí hội hè diễn ra. Mọi người bận rộn lo làm cá kẻo sợ ươn. Các người trong trại lo ăn trưa rồi chuẩn bị cá cho buổi tối và để dành cho những tháng sắp tới. Nhưng bất thình lình tiệc tùng chấm dứt. Lệnh ban ra là phải di tản tức khắc. “Đi ngay tức khắc”. Một người đàn bà chưa tin hỏi: “Còn cá của chúng tôi thì sao?” Một đống cá cao tới mấy “fít” đang nằm trong nhà bếp cộng đồng lấp lánh dưới ánh đèn dầu hôi mờ mờ, như nỗi kinh hoàng của những người trong trại. (42)
Một buổi tiệc khác cũng bị bỏ dở ở nhà máy dệt không xa trại này bao nhiêu. Cùng một ngày Khmer Đỏ cho phép công nhân giết heo và gà để tổ chức tiệc tùng kỷ niệm năm đầu tiên “chiến thắng lịch sử” đánh bại Việt Nam. (42)
Rõ ràng cuộc tấn công của Việt Nam dịu lại kể từ đêm 3 tháng Giêng, tạo cho Phnom Pênh không khí an toàn giả tạo. Ngay buổi tối 5 tháng Giêng, Pol Pot nói với Sihanouk một cách tin tưởng rằng lực lượng quân sự của y sẽ quét sạch quân đội Việt Nam ra khỏi Kampuchia. Mặc dù Bắc kinh khuyến cáo Khmer Đỏ nên xây dựng khu dự trữ trong vùng núi Cardamon khi phải bỏ thủ đô và mặc dù trong cuộc phỏng vấn của Tân Hoa xã hồi 11 tháng Chạp, Pol Pot tuyên bố chính phủ ông ta sẵn sàng đối đầu khi quân đội Việt Nam tấn công trong một cuộc “chiến tranh trường kỳ”, đơn giản là họ không tiên liệu được sức phòng ngự của họ bị sụp đổ hết sức bất ngờ. Tới lúc Pol Pot thấy không thể chiến thắng thì đã quá trễ. Trong vòng 24 tiếng đồng hồ thủ đô Phnom Pênh bị bỏ 180 ngõ, bỏ lại những bữa ăn chưa xong và hàng tấn cá ươn thúi, cả những hàng núi vũ khí đạn dược và hồ sơ lưu trữ các bản tự khai của nhà tù Toul Sleng. Ngay cả với một nhân vật đang bị chế độ tầm nã, Deuch, người đứng đầu trại tù Toul Sleng, hầu như cũng bị bỏ lại. Ông này chuồn ra khỏi Phnom Pênh dễ dàng khi quân Việt Nam tiến vào. Đại sứ Trung Hoa và hàng trăm cố vấn Trung Hoa cũng rời Phnom Pênh đúng lúc, nhưng họ phải bỏ lại mọi thứ. Với Việt Nam, điều họ thích thú nhất là tìm thấy trong tòa đại sứ Trung Hoa một hầm đầy rượu “cô-nhắc” của Pháp.
Việc Phnom Pênh sụp đổ có làm cho Việt Nam ngạc nhiên hay không? Không có câu trả lời sẵn. Không giống như “chiến dịch Hồ Chí Minh” chiếm đóng Saigon, chiến thắng đem lại hai cuốn hồi ký của hai tướng Cọng sản tham dự chiến dịch đó. (34) Chẳng có ai viết hồi ký về cuộc mạo hiểm của Việt Nam trên lãnh thổ Kampuchia.
Những hồi ký như thế về cuộc chiến năm 1975, tiết lộ là theo kế hoạch đầu tiên của bộ Chính trị Cọng sản Việt Nam thông qua hồi tháng Chạp năm 1974, quân đội Nhân dân Việt Nam thực hiện từng bước đấu tranh chính trị và quân sự trong các năm 1975-76 “làm thế nào để tạo ra những điều kiện tiến tới thực hiện tổng tấn công và nổi dậy... và giải phóng miền Nam.” (45)
Nhưng sau cuộc tấn công sơ khởi ở miền Cao nguyên hồi tháng Ba/ 1975, chế độ miền Nam sụp đổ mau lẹ đến nổi bộ Chính trị quyết định nắm lấy thời cơ và “giải phóng Saigon trước mùa mưa.” Có phải việc chiếm đóng Phnom Pênh là lặp lại việc chiếm đóng Saigon bốn năm trước đó? Hay Việt Nam đã có kế hoạch chiếm đóng toàn bộ Kampuchia và thành lập một chế độ lệ thuộc? Quan sát việc quân đội Việt Nam tiến nhanh vào thủ đô Phnom Pênh và thành lập chính phủ mới, hầu hết các quan sát viên kết kuận rằng quả thật đây là mục tiêu của họ. Tuy nhiên cũng không có gì nổi bật để kết luận như thế. Giống như điều đã xảy ra ở Saigon năm 1975, việc chiếm đóng Phnom Pênh cũng vậy, có thể đó là cơ may có chiến lược.
Chứng cớ lý thú nhất về giả thuyết đó là ở cuộc phỏng vấn hai nhân vật lãnh đạo Mặt trận Cứu nguy: Chea Soth, một trong những người xây dựng Mặt trận và là một thành viên bộ Chính trị của đảng Nhân dân Cách mạng Kampuchia (Kampuchea People's Revolutionary Party -viết tắt là KPRP) nói với Stephen Heder năm 1981, thoạt tiên họ không nghĩ có thể chiếm lấy toàn bộ đất nước. Ông ta nói: “Đúng ra, chúng tôi nghĩ phải có một thời kỳ chiếm đóng một nửa đất nước, một nửa bờ sông Mê-kông và để phía bên kia cho Pol Pot”. Kế hoạch đó đã thay đổi sau khi quân đội Việt Nam giành được chiến thắng quân sự đầu tiên: Chiếm Phnom Pênh và chiến đấu trường kỳ. “Chúng tôi không nghĩ là chúng tôi chiếm được toàn bộ đất nước cùng một lúc. Nhưng sau khi tấn công và không thấy sức kháng cự đáng kể, họ (lực lượng Pol Pot) chỉ rút lui mà thôi thì chúng tôi cứ thế mà tiến tới. Khi chúng tôi nắm được tình hình (Phnom Pênh đã bỏ trống) thì chúng tôi vào ngay thành phố này. Chẳng có nơi nào còn lại mà không bị chiếm”.
Một ủy viên khác của Ủy ban Trung ương đảng Nhân dân Cách mạng Kampuchia, Hem Saming cũng nói với Heder trong một cuộc phỏng vấn khác là: Kế hoạch nguyên thủy chỉ tấn công và “chiếm đóng một nửa bờ sông Mê-kông. Nhưng khi tấn công và truy kích chúng thì chúng tôi thấy dễ quá. Chúng tôi cứ thế mà tiến tới”. (47)
Những điều này hỗ trợ cho những chứng cớ rõ ràng việc chuẩn bị gấp rút của Mặt trận để nắm lấy tình hình. Cuộc tấn công bắt đầu hồi cuối tháng Chạp thì chưa tới ngày 6 tháng Giêng Mặt trận đã “tức tốc” công bố chương trình tám điểm để thi hành trong vùng giải phóng Kampuchia. Chương trình này được thông qua ngày 5 tháng Giêng sau nhiều lần trì hoãn cuộc họp được triệu tập ở Mimot trong tỉnh Kompong Cham để tái tổ chức đảng Cọng sản. Đại hội đang tiến hành nhằm bầu lãnh tụ mới và các thành viên chính thì ngay trưa ngày 7 tháng Giêng “tin điện báo cho biết Phnom Pênh đã được giải phóng. Đảng vừa mới thành lập tức thì kêu gọi tinh thần trách nhiệm 66 đại biểu đang họp hôm đó”.(48)
Ngày 8 tháng Giêng, trong khi những người lãnh đạo Mặt trận đang chờ có được tin tức rõ ràng hơn từ phía quân đội Việt Nam đưa tới để tiến vào Phnom Pênh thì đài phát thanh của Mặt trận loan tin sau khi “lực lượng quân đội cách mạng và nhân dân Kampuchia” giải phóng Phnom Pênh, một Hội đồng Cách mạng gồm 8 thành viên được thành lập do Heng Samring lãnh đạo. Vị cựu tư lệnh sư đoàn Khmer Đỏ, người đã đào thoát qua Việt Nam chỉ bốn tháng trước đây bất thần trở thành quốc trưởng nước Kampuchia.
Việc vội vàng ra lệnh cho các nhân viên dân sự Việt Nam -kỹ thuật viên và hành chánh - lãnh mọi trách nhiệm ở Kampuchia chứng tỏ có thiếu sót trong kế hoạch của Việt Nam dự trù chiếm đóng Kampuchia. Một điều thích thú khác cho thấy mục tiêu đầu tiên của Việt Nam có thể là chưa kiểm soát toàn bộ Kampuchia là thật vì theo sự quan sát của tình báo Mỹ, xe tăng Việt Nam hết xăng nửa đường khi họ tiến về tỉnh Kopmpong Thom trên quốc lộ 6. Trong khi chờ được tiếp tế nhiên liệu, vài chiếc đã bị Khmer Đỏ bắn hạ khi bọn này rút lui. Việc chờ đợi nhiên liệu kéo dài cả tuần lễ trước khi đoàn xe tăng tới được thành phố Battambang.(49)
Mặc dù tới tuần lễ thứ ba của tháng Giêng, việc chiếm đóng toàn bộ những khu chiến lược của Kampuchia -bao gồm những thành phố lớn và những con đường chiến lược cũng chưa xong, mãi tới trước tháng Tư/1979 cùng với chính lực lượng tăng phái, Việt Nam mới có thể mở ra cuộc tấn công chính vào tuyến phòng thủ Ta-Sanh do Khmer Đỏ dựng lên gần biên giới Thái Lan khi họ rút lui.
Kể từ chuyến bay cuối cùng cất cánh ở phi trường Pochentong hôm 6 tháng Giêng và chuyến xe lửa cuối cùng, trên đó có Ieng Sary rời Phnom Pênh vào sáng ngày 7 tháng Giêng, với người Kampuchia, biên giới Thái Lan là con đường độc nhất để tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Các nhà ngoại giao Trung Hoa, Nam Tư và các nước khác nữa có trụ sở ở Phnom Pênh cũng như hàng mấy trăm cố vấn và kỹ thuật viên Trung Hoa lo lắng và lếch thếch đổ xô qua biên giới để tìm nơi an toàn trong lãnh thổ Thái. Một quan chức bộ ngoại giao Thái kể lại: “Đối với Trung Hoa, đó là giây phút nhục nhã. Trước kia chẳng bao giờ có sứ bộ của Trung Hoa phải trốn chạy khỏi một nước chư hầu một cách nhục nhã như vậy.” Dĩ nhiên Thái Lan đón tiếp họ với thái độ nhã nhặn nhứt. Họ kín đáo sắp đặt những chuyến bay Boeing 707 của Trrung Hoa hạ cánh xuống Thái Lan, đáng mỉa mai lại là đáp xuống chính ngay căn cứ Mỹ cũ ở Utapao để đón những người Trung Hoa di tản từ Kampuchia sang. Chỉ mấy năm trước thôi, Trung Hoa lớn lối tuyên bố những căn cứ Mỹ ở Thái Lan là bàn đạp cho “cuộc xâm lăng của Đế quốc Mỹ.”
Ngày 11 tháng Giêng/1979, Ieng Sary chạy tới biên giới Thái Lan, vừa đói vừa mệt. Trong cuộc tháo chạy hỗn loạn đó, ông ta bị mất dép. Các nhà ngoại giao Trung Hoa ở Băngkok phải đem quần áo và giày mới tới cho ông. Một chiếc máy bay trực thăng của quân đội Thái bí mật chở ông ta và các cọng sự -gồm những người làm việc cho đài phát thanh Phnom Pênh - tới phi trường Đôn-Mường của Bangkok. Ở đây, họ được đưa lên một chuyến bay quốc tế thường lệ của hãng hàng không Thái để đi Trung Hoa qua ngã Hồngkông.