← Quay lại trang sách

Ba quốc gia, một dòng trôi

Khi quân đội Việt Nam tràn vào Phnom Pênh rồi tiến tới biên giới Thái Lan truy kích Khmer Đỏ thì ở Bangkok kinh hoảng lên. Quân Việt Nam sẽ ngừng lại ở đâu? Liệu “nước Nga ở Á châu” này truy kích tàn quân Pol Pot vào trong lãnh thổ Thái Lan? Liệu họ có cho xe tăng lăn xích vào thủ đô Thái Lan?

Trong hàng trăm làng Kampuchia, quân Việt Nam được hoan hô vui mừng nhưng thiếu tin tưởng. Cán bộ và dân quân Khmer Đỏ đã bỏ chạy rồi. Dân chúng bây giờ được tự do sống theo từng gia đình, yên tâm đi ngủ mà không sợ ngày hôm sau. Ba trăm ngàn người ở các tỉnh phía Tây và thủ đô Phnom Pênh buộc phải theo chân Khmer Đỏ rút vào rừng. Số còn lại coi như thoát nạn. Dân chúng lấy hết thóc trong vựa và giết heo gà để lo cho bữa ăn ngon lành đầu tiên sau nhiều năm đói khát. Hàng trăm ngàn người lên đường trở về quê. Đàn ông, đàn bà ăn mặc rách rưới mang theo ít đồ dùng đẩy trên xe cải tiến, kẻ đi qua, người đi lại giống như đàn kiến vậy. Sau cuộc xâm lăng của Việt Nam sáu tháng, khi tôi tới thăm lại Kampuchia, người dân tìm đường trở về vẫn còn lang thang trên đường. Mệt nhoài và đói khổ sau khi đi bộ hàng trăm dặm, họ tìm về nơi chốn cuối cùng. Một điệp khúc tôi thường nghe nói ở cửa miệng những người sống sót là “Nếu quân Viêt Nam không tới thì chúng tôi chết hết.” Tuy nhiên, điều bày tỏ biết ơn ấy lại kèm thêm một nỗi lo lắng khác vì Việt Nam là kẻ thù truyền thống. - Có thể Việt Nam sát nhập Kampuchia vào nước họ. Một người nguyên là thầy giáo nói nhỏ vào tai tôi khi ông ta đang trên con đường dài trở về làng cũ: “Tôi sợ họ (Việt Nam) ở lại đây ăn hết lúa gạo chúng tôi.”

Chắc chắn Việt Nam chẳng cần nuôi dưỡng niềm tin. Ba tháng sau khi chiếm Phnom Pênh, họ cướp phá thành phố này một cách có hệ thống. Từng đoàn xe tải chở tủ lạnh, máy điều hòa không khí, dụng cụ điện, tủ bàn, máy móc và các tượng điêu khắc quí giá hướng về thánh phố Hồ chí Minh. Những loại hàng này dân chúng phải bỏ lại sau cuộc xua đuổi tàn bạo dân chúng ra khỏi thành phố năm 1975 và bọn Khmer Đỏ cũng không đụng tới. Họ ghét những thứ hàng của bọn tiểu tư sản đồi bại. Những chiến lợi phẩm từ Phnom Pênh có thể đem lại cho Hà Nội ít tiền nhưng để lại một vết hằn sâu trong tâm khảm người Khmer, nó làm gia tăng sự thương tổn về tiếng Youn mà người ta không ưa. Nó cũng để lại một vết dơ lớn cho vai trò “người cứu mạng” của nhân dân Kampuchia.

Tháng Bảy/ 1979, khi tôi tới Phnom Pênh thì đó là thành phố ma, hoàn toàn trơ trụi, công việc liều lĩnh nhất của những người trở về là dựng những căn chòi sơ sài để chờ bên ngoài thành phố. Những người này họ tìm cách lẽn vào thành phố săn tìm những gì có thể mang đi được. Đi dọc theo đại lộ Monivong, tôi có thể nghe tiếng dội dị thường bước chân tôi đi. Khu dịch vụ Trung Hoa một thời nhộn nhịp ở Phnom Pênh trông giống như cảnh trạng sau cơn bão lớn. Nhà cửa, quán tiệm đều bị lục soát, chỉ còn lại tủ bàn gảy gọng và dụng cụ gia đình móp méo quăng lây lất trên đường. Nệm bị cắt xé và bao gối nằm giữa đất. Rõ ràng bọn cướp bóc đã vào nhà lục lọi tìm vàng hay nữ trang người ta dấu lại.

Nếu Việt Nam không nghĩ tới sức kháng cự Khmer Đỏ sụp đổ mau lẹ thì họ cũng không chuẩn bị đầy đủ cho những gì đang chờ đợi ở trong nưóc cũng như những khó khăn quốc tế nghiêm trọng. Nó không hẵn chỉ là một quốc gia không có tiền tệ, chợ búa, bưu điện. Những người sống sót mất tinh thần và gầy yếu đang phải đối đầu với nạn đói. Thay vì được hoan hô vì đánh đuổi được một chế độ đáng nguyền rủa thì họ lại phải đối đầu với những lời phê phán của thế giới.

Kampuchia do đảng Nhân dân Cách mạng Kampuchia cai trị, đảng này được dựng lên một cách vội vã khi quân Việt Nam tiến vào thành phố Phnom Pênh. Đảng có hai trăm đảng viên, gồm đám nguời chạy loạn và đào thoát khỏi hàng ngủ Khmer Đỏ và không có kinh nghiệm gì cả, họp thành Ủy ban Cách mạng cũng không phải nắm giữ nhiệm vụ phục hồi đất nước và duy trì cuộc sống bình thường của dân chúng sau cơn ác mộng. Điều quan trọng nhứt là họ không thể hy vọng gìn giữ chế độ mới chống lại lực lượng vũ trang Khmer Đỏ. Sự giết hại những người thuộc giai cấp có nghề chuyên môn ở Kampuchia và sự miễn cưỡng của những người sống sót phục vụ cho một chế độ Cọng sản khác làm cho công việc xây dựng lại đất nước thêm phần khó khăn.

Hàng ngàn chuyên viên và kỷ thuật viên Việt Nam được lệnh đi Kampuchia để bảo trì nguồn tiếp tế nước và nhà máy điện của thành phố Phnom Pênh, cho xe lửa hoạt động trở lại, mở lại các bệnh viện đơn sơ có các bác sĩ Việt Nam, điều dưỡng viên và nhóm nhỏ các bác sĩ Kampuchia. Chính quyền được thành lập với sự điều hành của cố vấn Việt Nam núp ở đằng sau. Hàng trăm người Kampuchia được đưa qua học những lớp cấp tốc y tế, giáo dục, ngân hàng, ngoại thương và an ninh.

Sau một thời gian không có tiền tệ, trong thời gian đầu chợ búa hồi sinh trao đổi bằng lúa gạo và vàng, năm 1980, giấy bạc được lưu hành. Nhờ sự buôn lậu lớn qua biên giới Thái Lan, chợ búa lại dồi dào hàng hóa. Sự viện trợ to lớn của quốc tế đánh đuổi được nạn đói. Trẻ em lại đến trường. Thuốc về nhiều trong các kệ bệnh viện mà trước kia trống rỗng. Kampuchia hồi sinh như tôi đã chứng kiến trong một thời kỳ dài hơn sáu năm. Đó là phép lạ, như con phượng hoàng trỗi dậy từ đống tro tàn. Dù Việt Nam cung cấp hạ tầng cơ sở đáng kể, sự viện trợ quốc tế quả là cao thượng, nhưng trên tất cả là sự toàn thắng nhờ sức chịu đựng và lòng kiên trì của người dân Kampuchia.

Tuy nhiên, việc giải cứu Kampuchia còn dễ hơn giải quyết những vấn đề chính trị tương lai. Như những người dân Kampuchia đang trên đường tái tạo cuộc sống, những cố gắng lớn của Hà Nội là tập trung đoàn kết toàn quốc, tạo ra một quốc gia Kmer mới, có chính quyền và định chế đảng phái.