← Quay lại trang sách

"Nếu Phnom Pênh sụp đổ Saigon sẽ sụp đổ theo."

Mùa xuân năm 1981, môt bản hiến pháp mới được thông qua sau khi có cuộc tổng tuyẻn cử toàn quốc chọn 117 người trong 148 ứng cử viên. Ứng cử viên là những người Khmer Đỏ cũ, Khmer Issarak, và những trí thức còn sống sót từ chế độ cũ mà họ đã đoàn kết chống lại Pol Pot. Về cuộc tuyển cử, bộ trưởng ngoại giao Hun Sen giải thích: “Chúng tôi chọn những người có hay không hoạt động trong lãnh vực chính trị. Đặc biệt, chúng tôi chọn những người từng hoạt động chính trị và đã có hy sinh xương máu.”      (17) Chẳng có gì ngạc nhiên, tất cả những người cương quyết của chế độ mới được chọn với số phiếu 99 phần trăm.

Sau cuộc tuyển cử, đại hội đảng chính thức tiết lộ một đảng được tổ chức lại ở Mimot hồi tháng Giêng/1979. Đảng mới này, được đặt tên lại là đảng Nhân dân Cách mạng Kampuchia (Kapuchean People's Revolutionary Party -KPRP) có tám trăm đảng viên, làm sống lại phe thân Việt Nam của đảng Cọng sản Kampuchia hầu như đã bị Pol Pot tiêu diệt hoàn toàn. (8) Tổng bí thư của đảng là Pen Sovan, một người cứng rắn, má hóp thuộc nhóm Khmer Issarak trước lưu vong ở Hà Nội.

Đảng mới phục hồi sự đoàn kết Đông Dương trước kia đã bị Pol Pot phá vỡ. Pol pot từ khước Việt Nam như là một đảng đàn anh của Cọng sản Kampuchia. Pen Sovan thừa nhận đảng Nhân dân Cách mạng mang cái hào quang truyền thống của Hồ Chí Minh - người sáng lập đảng Cọng Sản Đông Dương. Một trong những cố gắng chính của Việt Nam ở Kampuchia là giáo dục đảng Nhân dân Cách mạng, đặc biệt với những thành viên mới về sự nguy hiểm của “chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi”, phá vỡ tình đoàn kết Đông Dương. Để giữ gìn sự trong sáng của đảng, các cố vấn Việt Nam (ở cấp tỉnh) phủ quyết những người có thể là đảng viên và chọn ứng viên được gởi đi Việt Nam để học tập chính trị. (9)

Về mặt quân sự, Kampuchia được đặt dưới trách nhiệm của Quân đoàn 4 của Việt Nam, Quân đoàn này đảm trách các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Trong khi bộ Quốc phòng Kampuchia đang được thành lập, tới 1983, ba sư đoàn quân đội Khmer được nâng lên (10) vai trò hỗ trợ thì 180 ngàn quân Việt Nam của Quân đoàn 4 do tướng Lê Đức Anh chỉ huy tạo thành một cái mộc che cho chế độ còn non yếu.

Ba tổ chức, như cái bóng, kiểm soát nước Cọng hòa Nhân dân Kamppuchia, tên của chế độ. Tổ chức cao nhất là một bộ phận có tên gọi là A- 40 gồm một số chuyên viên lấy từ Ủy ban Trung ương đảng Cọng sản Việt Nam. Họ duy trì quan hệ giữa hai đảng Kampuchia và Việt Nam và đưa ra mọi khuyến cáo quan trọng. Một bộ phận khác gọi là B-68 do Trần xuân Bách lãnh đạo, một thành viên ban bí thư đảng và gồm thêm những chuyên viên cấp trung ương làm việc với các cơ quan cấp bộ khác nhau, tham gia các quyết đinh hằng ngày. Bộ phận thứ ba gồm các cố vấn gọi là A-50, gồm những người làm việc ở cấp tỉnh. (11)

Tại nông thôn, các cố vấn dân sự từ các tỉnh “kết nghĩa” (sister) ở Việt Nam qua làm việc trong các văn phòng tỉnh. Bên dưới cấp tỉnh các là toán đặc biệt do quân đội Việt Nam phái tới có một đại úy chỉ huy. (12)

Những năm sau khi Việt Nam CS xâm lược và chiếm đóng Kampuchia, Việt Nam CS muốn chỉnh đốn lại liên minh Đông Dương và nâng lên mức độ luật pháp tự nhiên bất dịch -một thứ luật pháp do trong quá trình lịch sử và địa lý mà có. Tướng Lê Đức Anh viết trong một bài báo lớn: “Qua nhiều thế kỷ, ba nước (Lào, Kampuchia và Việt Nam) đã chia xẻ số phận nạn nhân do phong kiến Trung Hoa, đế quốc và những thế lực phản động quốc tế xâm lược.” Chia cắt nước này khỏi nước kia, dùng nước này như một bàn đạp để sát nhập nước kia, rồi sát nhập cả ba nước làm một đã trở thành “một định luật của mọi cuộc chiến tranh xâm lược từ bên ngoài.” Anh cho rằng kết quả xây dựng “một liên minh chiến đấu và chiến lược giữa ba nước Đông Dương sẽ tạo nên sức sống còn và phát triển cho mỗi quốc gia cũng như cho cả Đông đương vậy.” (13)

Binh lính Việt Nam phục vụ ở Kampuchia, chết vì bệnh sốt rét, bị tàn tật hay bị giết trong các cuộc phục kích của Khmer Đỏ, chính là đóng góp phần của họ vào cái “luật” đó theo phương cách căn bản nhất. “Nếu Phnom Pênh sụp đổ, Saigon sụp đổ theo. Nếu chúng tôi chiến đấu và chết thì phải chết ở đây chứ không phải chết ở Việt Nam. Đó là phương cách các sĩ quan Việt Nam giải thích lý do tại sao họ phải có mặt ở Kampuchia.(14)

Hợp tác thì vâng, làm nước đệm thì không.

Bước tiến công khai đầu tiên để tiến tới hình thức liên minh Đông Dương được thực hiện hồi tháng Giêng/1980, khi các bộ trưởng ngoại giao của ba nước họp ở Phnom Pênh, tuyên bố tình đoàn kết của họ để giải quyết vấn đề Kampuchia và những vấn đề quốc tế khác. Từ đó về sau, cứ hai năm một lần họ lại họp với nhau như thế để cho thế giới thấy Hà Nội đóng vai trò lãnh đạo cho toàn thể nhóm các nước Đông Dương. Với vai trò hợp tác của Lào và Kampuchia, Hà Nội không những nắm lấy ngôi vị chủ đạo đối với từng nước mà còn tìm cách chính thức hóa chế độ Phnom Penh, tạo thành một ý niệm không thể lay chuyển được cho liên minh mới hình thành của họ. Từ năm 1980, Hà Nội cố phát triển một ý niệm về hai khối ở Đông Nam Á: Khối Đông Dương và Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) và thẳng thừng bác bỏ ý kiến cho rằng Kampuchia nên trở thành một nước đệm giữa hai khối. Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch của Việt Nam nói với bộ trưởng ngoại giao Thái, Sitthi Sawetila hồi tháng Năm/1980: “Tôi không cho rằng Đông Nam Á cần có một quốc gia đệm. Tại sao các ông lại muốn có một quốc gia đệm bên trong các nước Đông Dương.” (15)

Điều Hà Nội tìm kiếm không chỉ là một khối an ninh chính trị mà còn là một khối hợp tác kinh tế toàn diện, qua đó “dần dần phân bố bổ túc lao động, bảo đảm thành quả lao động và khả năng tiềm tàng đất đai của tổ quốc.”(16) Với sáu triệu hếcta đất đai canh tác được và với dân số 60 triệu người (1985), Việt Nam rõ ràng thấy Kampuchia đất rộng người thưa (Dân số 7 triệu), với 1 triệu rưởi hếcta đất đai canh tác được và nguồn lợi thủy sản lớn lao.(17)

Viêc theo đuổi chính sách này bắt đầu từ thỏa hiệp Lào-Việt ký năm 1977, tất cả các tỉnh của Lào và Kampuchia đều kết nghĩa với các tỉnh của Việt Nam. Cố vấn Việt Nam, chuyên viên kỷ thuật, bác sĩ từ các tỉnh kết nghĩa bên phía Việt Nam được phái tới các tỉnh kết nghĩa ở Lào và Kampuchia để tham gia các dự án nhỏ và xây dựng liên kết đặc biệt của Đông Dương.

Tiếp theo cuộc họp cao cấp của ba nước Đông Dương tại Việt Nam hồi tháng Hai/1983, một Ủy ban hổn hợp Kinh Tế Việt-Lào-Kampuchia được thành lập. Từ đó, cơ quan này, gồm bộ trưởng kế hoạch của mỗi nước họp hai năm một lần, để “gia tăng hợp tác kinh tế và điều hòa kế hoạch hợp tác quốc dân”(18) Mạc dù Ủy ban quốc gia về hợp tác văn hóa và kinh tế đã được thành lập trong mỗi nước, ban đầu chỉ gia tăng về mặt tư vấn, chẳng bao lâu sau Hà Nội làm sáng tỏ cho thấy đó là “mục tiêu lâu dài để đưa ba nước gần lại với nhau và đạt được thành quả hợp tác kinh tế.” (19)

Sự thực là trước cuộc đảo chính năm 1970 đã có năm ngàn người Việt sinh sống ở Kampuchia, tất cả họ đều bị giết trong chính sách chống Việt nam của Lon Nol và Pol Pot hoặc bị trục xuất về Việt Nam là tiêu biểu cho chính sách quay trở lại của họ. Những người trở lại này cũng như người mới đến định cư có thể trở thành yếu tố quan trọng cho sự hợp tác kinh tế toàn diện và lâu dài. Một hội đồng chỉ đạo của các bộ trưởng Kampuchia nói rằng “những người Việt Nam đến Kampuchia từ năm 1979 đã tham gia việc phục hồi công cuộc định cư và phát triển kinh tế như nông nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp và làm muối có thể đưọc xem xét cho ở lại và tiếp tục làm việc.” (20)

Mặc dù Việt Nam quan tâm tới làn sóng người Việt Nam ồ ạt tiến vào Kampuchia có thể làm gia tăng tính thù địch của người Khmer và tạo ra căng thẳng, họ cũng thấy người Việt Nam ở đây kiếm được công ăn việc làm và nắm giữ nhiều vai trò then chốt trong nền kinh tế nước này. Dù chính sách của Hà Nội đưa ra có mục đích định cư người Việt ở Kampuchia, như đối phương tố cáo, thì đó chỉ là tiếp nối sinh hoạt tự nhiên trong quá khứ của người Việt Nam đối với những vùng ít cư dân, hậu quả là gia tăng sự có mặt của người Việt Nam trên toàn quốc. Theo các nhà nghiên cứu xã hội, tới năm 1985, hơn 175 ngàn người Việt, -gồm dân sự, cựu cư dân ở Kampuchia, những người đi tìm đất mới, thương nhân và binh lính giải ngũ - định cư ở Kampuchia. (21) Theo vài số liệu dự đoán khác thì cao lên tới sáu trăm ngàn người. (24)

Trong khi quân đội Việt Nam và các cố vấn dân sự cố gắng củng cố chế độ Kampuchia mới thì toàn bộ nỗ lực của Hà Nội là tìm kiếm sự công nhận của quốc tế với chế độ Cọng Hòa Nhân dân Kampuchia. Sự lên án của thế giới đối với việc Việt Nam can thiệp và cấm vận kinh tế tiếp theo sau những cố gắng của Việt nam nhằm hợp thức hóa chế độ Kampuchia mới là quan tâm lớn nhất của chính sách ngoại giao của Hà Nội. Mục đích của nó là củng cố chế độ, xóa bỏ Kampuchia Dân chủ của Pol Pot hơn là nói lên tính công hiệu của chế độ do Hà Nội mới dựng nên.

Trên hình thức, việc công nhận nước Dân Chủ Cọng hòa Kampuchia là từ các nước trong khối Liên Xô và mười một nước thân Liên Xô cũng như 88 thành viên của khối Không Liên Kết. (NAM) Trong khi bạn bè của Hà Nội trong tổ chức này chưa trục xuất Kampuchia Dân chủ ra khỏi phong trào này thì ít ra, về mặt ngoại giao Hà Nội cũng thành công trong việc khóa miệng Khmer Đỏ trong các buổi hội nghị. Tại một cuộc họp của tổ chức không liên kết này ở Colombo hồi tháng Sáu/1979, lời đề nghị của Hà Nội dành cho Hunsen, đại biểu trẻ của Cọng hòa Nhân dân Kampuchia một ghế đã bị bác bỏ và đồng ý cho đại biểu thù địch của Hun Sen, Ieng Sary của nuớc Kampuchia Dân chủ giành lấy ghế đại biểu này với một điều kiện. Ông ta hiện diện ở đó nhưng không được phát biểu trên diễn đàn. Tháng Chín/1979, tại hội nghị tối cao các nước không liên kết họp ở Havana (Cuba), tân chủ tịch của phong trào là chủ tịch Phidel Castro của Cuba, đã có một hành động ơn huệ. Mặc dù Khiêu Sampan, chủ tịch của chế độ mới bị sụp đổ, nhận được chiếu khán cho vào Cuba, đoàn đại biểu của Khiêu cư trú tại một khách sạn cách nơi hội nghị hai mươi dặm, nhưng họ bị tước đoạt phương tiện di chuyển và thẻ nhận dạng để vào hội nghị. Mặc dù đại biểu các nước trong khối ASEAN phản kháng mạnh mẽ, ghế đại biểu của Kampuchia vẫn bị bỏ trống, và từ đó vẫn cứ bị bỏ trống như vậy.

Những thứ mưu mẹo như thế và ngay cả quyền phủ quyết của cường quốc Liên xô đã không thành công ở Liên Hợp Quốc. Trong suốt thời gian họp Đại Hội đồng hồi tháng 9/1979, cố gắng của Việt Nam trục xuất Kampuchia Dân chủ ra khỏi tổ chức thế giới này bị thất bại.

Trong một cuộc bỏ phiếu của Hội đồng Bảo an, có 6 phiếu (gồm cả Hoa Kỳ) chống 3, Kampuchia Dân chủ tiếp tục giữ ghế của họ. Đây là cuộc bỏ phiếu có phần mai mỉa đối với chính quyền Carter mà trước đó họ đã cáo buộc Kampuchia Dân chủ “vi phạm nhân quyền thô bạo nhất.” Vance rất phiền với quyết định này vì Hoa Kỳ bỏ phiếu cho chế độ Pol Pot. Tuy nhiên, nếu bỏ phiếu chống lại Kampuchia Dân chủ cũng có nghĩa là chống lại Trung Hoa và các nước trong khối ASEAN, là hợp thức hóa cuộc xâm lăng của Việt Nam. Về sau, một quan chức Mỹ nói rõ thêm: “Đối với chúng tôi, sự lựa chọn là giữa những nguyên tắc luân lý và luật pháp quốc tế. Chúng tôi nghiêng cán cân về phía luật pháp vì nó cần cho an ninh và quyền lợi của chúng tôi.” Tuy nhiên, cuộc bỏ phiếu có tính cách định mệnh ấy đã nối liền với bọn giết người là những người mà quan chức Hoa Kỳ bị cấm bắt tay.” (23)

Ngày 21 tháng 9/1979, Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc thông qua bản tường trình của Ủy ban Ủy nhiệm bằng một cuộc bỏ phiếu 71 thuận trên 35 chống và 34 phiếu trắng. Hành động quân sự của Việt Nam chống lại Kampuchia Dân chủ bắt đầu hồi Giáng sinh/1978 và cuối cùng bị “chiếu tướng” tại diễn đàn Liên Hợp Quốc. Chế độ Pol Pot có thể trở thành một nhóm du kích lén lút trên các ngọn đồi, nhưng nó lại được bỏ phiếu công nhận là đại biểu hợp pháp duy nhất cho nhân dân Kampuchia. Từ cuộc bỏ phiếu đó, vài tuần trong mùa thu, cuộc đấu tranh cho Kampuchia di chuyển từ những khu rừng rậm trên biên giới Thái-Miên tới phòng hội to lớn của Liên Hợp Quốc ở khu Manhattan tại thành phố Nữu Ước.

Tại Liên Hợp Quốc làm sóng đấu tranh buộc Việt Nam rút quân khỏi Kampuchia và để nhân dân Kampuchia quyền tự quyết tạo ra một liên minh khác rất lạ lùng của hàng trăm quốc gia ủng hộ Khmer Đỏ mà nhiều nước trong số này từng bị tố cáo và lên án. Việc Liên Hợp quốc tiếp tục công nhận nước Kampuchia Dân chủ có nghĩa là cô lập ngoại giao Việt Nam và tạo cho Trung Hoa một bầu không khí, qua đó, dựng nên chiến dịch trừng phạt Việt Nam và cố gắng làm đảo ngược thắng lợi quân sự của Hà Nội.

Diễn biến gia tăng cho Việt Nam

Bài học quân sự của Trung Hoa hồi tháng Hai/1979 chẳng có dấu tích gì đối với quyết định của Việt Nam ở lại Kampuchia cả. Tuy nhiên, Bắc Kinh được thuyết phục rằng áp lực quân sự hỗn hợp (cả ở biên giới Hoa Việt và ở nội địa Kampuchia) cùng với cô lập ngoại giao, cấm vận kinh tế của cộng đồng thế giới buộc Hà Nội phải tìm kiếm hòa bình. Mục tiêu của Trung Hoa là duy trì Khmer Đỏ dù có thử thách và cải cách để nắm quyền ở Phnom Pênh. Ngay việc ấy khó có khả năng thực hiện được, tiếp tục chiến đấu chống Việt Nam dường như là một mục tiêu vừa đủ tầm cho chính sách ngoại giao Trung Hoa. Liên Xô xâm lược Afganistan tháng 12/1979 tạo thêm sức nặng cho công cuộc chống Liên xô của Trung Hoa. Trung Hoa có thể nắm vai trò hàng đầu đòi độc lập và tự trị của hai nước nhỏ và là kẻ chiến đấu hàng đầu chống lại Liên Xô bá quyền và Việt Nam bành trướng, một hành động có thể đem lại hứa hẹn của các nước Tây phương hỗ trợ cho chương trình hiện đại hóa của Trung Hoa.

Tuy nhiên, điều quan trọng nhất, không nói ra lý do là tại sao Trung Hoa không hăng hái từ bỏ cuộc xung đột ở Kampuchia, dùng dằng không để giải quyết là vì họ sợ nếu vấn đề được giải quyết nhanh chóng thì có thể chỉ có lợi cho Hà Nội. Nếu chế độ thân Việt Nam được hợp thức hóa ở Kampuchia và một khối Đông Dương đoàn kết dưới chỉ đạo của Hà Nội, thì nó sẽ trở thành một sức mạnh quan trọng cho quyền lực Trung Hoa ở trong khu vực này. Giải pháp xung đột Kampuchia và bảo toàn tình hữu nghị giữa Hà Nội và các nưóc Đông Nam Á sẽ kết thúc liên minh không mấy thỏa đáng giữa Trung Hoa và các nước trong khối ASEAN. Đối đầu với quyền lực Việt Nam đang được củng cố ở Đông Dương, Thái Lan sẽ nghiêng theo chiều gió và bớt hợp tác với Trung Hoa. Những nước ASEAN khác như Indonêsia và Mã Lai, những nước thường nhìn người Trung Hoa ở nước họ với lòng ngờ vực và sợ chủ nghĩa bành trướng Bắc Kinh cũng ít nghiêng về phía Trung Hoa. Mặt khác, một cuộc chiến lâu dài ở Kampuchia có thể tạo ra đối đầu giữa Việt Nam-Liên Xô, chống lại toàn bộ thế giới còn lại, làm hao mòn tài nguyên của Liên Xô và xương máu của Việt Nam. Trong khi Trung Hoa công khai đòi Việt Nam rút quân khỏi Kampuchia, trong một sự thành thật ít có, Đặng Tiểu Bình thúc đẩy thủ tướng Nhật Bản Masayoshi Ohira là Nhật và các nước Tây phương khác nhiệt tình trong việc đòi hỏi Việt Nam phải rút quân mau lẹ ra khỏi Kampuchia. Đặng nói với thủ tướng Nhật: “Buộc Việt Nam ở lại Kampuchia chính là sự khôn ngoan của Trung Hoa, bởi vì bằng cách đó, chúng nó phải chịu đựng tổn thất nhiều hơn và chẳng có thể với tay tới Thái lan, Mã Lai và Tân gia ba”(24)

Tháng Tư/1980, khi tôi phỏng vấn, thứ trưởng ngoại giao Hàn Niệm Long của Trung Hoa, một trong những nhà kiến trúc chiến lược của Trung Hoa với Đông Dương, đưa ra lời biện luận khác biệt. Hỏi về việc quân đội Việt Nam rút khỏi Kampuchia, ông ta nói điều đó không thể áp dụng được. Ông ta nói: “Chỉ khi nào Liên xô không viện trợ cho Việt Nam được nữa thì một giải pháp chính trị cho sự khủng hoảng này mới hình thành.” Đối với thời điểm chưa làm gì được thì “chỉ làm nhẹ đi gánh nặng của Liên xô. Chúng tôi sẽ cố gắng, cũng như dùng quan điểm chung để gây áp lực với họ, làm cho họ thấy rằng họ không thể tiếp tục con đường đang đi... Chúng tôi bảo đảm Liên Bang Xô Viết đang bị cô lập hoàn toàn.” (25)

Cuôc xung đột Hoa-Việt tiến tới kích thước mới vào mùa hè năm 1979 khi Trung Hoa bắt đầu tổ chức lại những người đào thoát và bất mãn từ Đông Dương tới thành một nhóm kháng chiến chống VIệt Nam. Trong khi hàng chục cán bộ trung cấp từ Việt Nam và Lào trốn tới Bắc Kinh và các bộ lạc kháng chiến người tỵ nạn Lào tới Bắc Kinh thì Hoàng văn Hoan, một trong những đồng chí thân cận của Hồ Chí Minh và là một thành viên bộ chính trị trốn thoát tới Trung Hoa. Vào tháng Bảy, trong khi máy bay ghé lại Karachi trên đường đi Đông Bá-Linh để trị bệnh, Hoan, 76 tuổi, than phiền đau ngực, được Pakistan đưa vào bệnh viện khám xét. Khi máy bay sắp cất cánh, những cận vệ và các người đồng hành của Hoan mới hay rằng văn phòng nhân viên ở phi trường chẳng hay biết gì về trường hợp của Hoan cả. Một tháng sau, ông ta xuất hiện ở Bắc Kinh và tố cáo “Duẩn và đồng bọn bán Việt Nam cho Mạc Tư Khoa.” Trong khi Hoan đưa ra lời kêu gọi một “cuộc cách mạng thứ hai” ở Việt Nam thì Trung Hoa thiết lập một trường huấn luyện cho người Việt, Lào bất mãn chế độ và các người thuộc các nhóm bộ lạc nhỏ. Trung Hoa bắt đầu ủng hộ phong trào du kích chống Cọng, chống lại chính quyền các nước Đông Dương.(26)

Như một chuyên viên bộ ngoại giao Trung Hoa ghi nhận: “Trung Hoa không chỉ cho Việt Nam một hay hai bài học. Nó áp dụng cho toàn bộ vấn đề.” Nó bao gồm cả những áp lực mạnh mẽ cho Lào và Kampuchia, ngăn cản những nước này với Việt Nam đang viện trợ cho họ và buộc Việt Nam phải quân sự hóa nền kinh tế của họ. Theo ông ta thì phương cách ấy có thể kéo dài thêm ba hay năm năm nữa. “Tôi không biết Trung Hoa trù định hậu quả như thế nào sau khi tình hình này kết thúc.” (27)

Tình hình bên trong Kampuchia cần phải có liên minh mới trong khu vực. Nhìn từ Bangkok, thảm trạng Việt Nam chiếm đóng Kampuchia đã tước đoạt mất phương tiện phòng ngự hiện đại của họ, là chơi lại ván bài bành trướng của triều đại nhà Nguyễn hồi đầu thế kỷ 19. Việc người Pháp đến Đông Dương tạm thời làm ngưng sự thù địch giữa Việt Nam và Thái lan tranh giành nhau vùng đất tốt nhứt trong nội địa Đông Nam Á. Từ thế kỷ 17, người ta đã thấy sự thù địch đó được bày tỏ qua những cố gắng của cả hai phía để kiểm soát khu vực đệm này: Vương quốc Lào và Kampuchia - và làm cho nhau kém thế đi. Thời kỳ sau hiệp định Genève 1954, Thái Lan cố ngăn cản Việt Nam Cọng sản bằng cách hợp tác với CIA mở ra cuộc “chiến tranh bí mật” ở Lào, viện trợ cho phong trào chống Cộng Khmer Serei ở Kampuchia và gởi quân đội tới Nam Việt-Nam. Hà Nội đáp ứng bằng hành động viện trợ bọn nổi loạn Cọng sản Thái. Tuy nhiên, những cố gắng của Thái đều thất bại. Năm 1975, Cọng sản thắng lợi ở Lào, nơi có năm chục ngàn quân đội Việt Nam trấn đóng và việc Việt Nam chiếm đóng Kampuchia sau đó có nghĩa là Thái Lan đã mất đi một khu vực sống còn mà họ đã tìm cách chiếm cứ từ thế kỷ 17. Cuối cùng Thái Lan không sẵn sàng nám lấy vai trò của họ. Hồi trước, Thái Lan sẵn sàng đáp ứng bằng cách gởi quân tới đánh nhau với Việt Nam trong lãnh thổ Kampuchia. Việc ấy nay không thể còn có được nữa. Trong cuộc tranh luận có tính chiến lược nóng bỏng nhất hồi đầu năm 1979, Kriangsak bị chất vấn về việc can thiệp với câu hỏi: “Với danh nghĩa nào chúng ta sẽ tiến vào Kampuchia? giúp Khmer Đỏ phải không?” Tuy nhiên, nhờ sự kháng chiến lâu bền của Khmer Đỏ và quyết định của Trung Hoa làm giảm bớt sức mạnh Việt Nam, Thái tự thấy mình còn đủ sức đối đầu với Việt Nam đang ở thế thượng phong. Theo các nhà chiến lược Thái, không làm như vậy, về mặt căn bản, sẽ làm biến đổi sự cân bằng quyền lực trên vùng nội địa Đông Nam Á. Nó có thể đưa Việt Nam tới tận ngưỡng cửa Thái Lan và tạo ra con đường tiến tới lật đổ và cuối cùng Việt Nam chiếm đóng Thái Lan. Như một nhà quân sự Thái phát biểu: mất Kampuchia là một nước đệm. Điều tốt nhất Thái có thể làm được là nuôi dưỡng một cuộc chiến, tự cuộc chiến đó, nó trở thành một vùng đệm cho Thái Lan.