Vai trò của chú Sam
Tháng Giêng năm 1985, lịch sử quay đúng một vòng, một thập niên đã qua sau khi chiếc trực thăng cuối cùng rời khỏi Saigon, bộ trưởng ngoại giao các nước Đông Dương kêu gọi Hoa Kỳ hãy quay trở lại vùng này để đóng vai trò xây dựng laị xứ sở họ. Sự việc này xảy ra tiếp sau liên hệ Nga-Hoa nhú mầm hòa hoãn cũng như quan hệ Mỹ-Hoa thêm tốt đẹp. Chính sách của Reagan muốn thảo luận với Trung Hoa về vấn đề Đài Loan cũng đặc biệt khuyến khích Hà Nội.
Sau khi George Schultz nắm quyền ngoại trưởng thay cho Alexander Haig năm 1982, Hoa Kỳ quan tâm hơn nữa về vai trò của Trung Hoa như là thành viên tham gia cùng một chiến lược. Vấn đề xem Trung Hoa là phần tử đóng một vai trò quan trọng trong vùng, một thị trường tiềm tàng to lớn cho nền thương nghiệp và đầu tư của Mỹ, là phần tử đối lập quyền lực của Liên Xô ở châu Á, không còn chiếm ngự trung tâm tư tưởng chiến lược Hoa Kỳ nữa. Mặc dù Hoa Thạnh Đốn đồng ý với Trung Hoa gây áp lực với Việt Nam, rõ ràng người ta thấy mục tiêu của họ ở Kampuchia không giống nhau. Trung Hoa khó chịu khi chính quyền Reagan thường nhắc đi nhắc lại lời tuyên bố chống Khmer Đỏ trở lại nắm quyền ở Kampuchia, Hoa Kỳ cũng kịch liệt chống Việt Nam chiếm đóng Kampuchia như Trung Hoa vậy. Hoa Kỳ quan tâm đến sự vững bền và liên kết của các nước ASEAN, trên hết là nền an ninh của Thái Lan, hơn là làm cho Trung Hoa vui lòng. Chính sách của Hoa Kỳ được tỏ rõ như vậy. Hoa Kỳ từ chối không đóng một vai trò gì trước tiên cho chính họ ở Kampuchia nhưng ở đằng sau đó, Hoa Kỳ ủng hộ các nước ASEAN đưa vấn đề liên minh của người Kampuchia và đảm bảo thành công ở diễn đàn Liên Hợp Quốc. Năm 1982, Hoa Kỳ bắt đầu một chương trình bảo trợ với trị giá 15 triệu một năm qua các nước ASEAN cho những thành viên không-Cọng sản tham gia liên minh này. Phản ảnh phương hướng viện trợ mới của Hoa Kỳ đối với những thành phần không-Cọng sản được coi là “chiến sĩ của tự do” trên khắp thế giới hồi năm 1985, Quốc hội chấp thuận ngân khoản 5 triệu đồng viện trợ công khai về kinh tế và quân sự cho lực lượng kháng chiến Kampuchia.
Trong viễn tượng thay đổi dó, Việt Nam không phản ứng việc viện trợ như thế -điều người Mỹ liên hệ trực tiếp kể từ 1975. Khác với điều họ quan tâm đến tính chất biểu tượng về hành động đó, Hà Nội thấy tình trạng chiến lược thay đổi ở vùng Đông Á, Việt Nam đoán thấy Hoa Kỳ năm 1985 cũng tương tự như hồi năm 1978. Trước khi ký thỏa hiệp với Moscow và chiếm đóng Kampuchia, họ đã thực hiện những cố gắng tuyệt vọng để bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ. Sau bảy năm củng cố ảnh hưởng ở Kampuchia, Việt Nam lại tìm kiếm cơ hội thiết lập liên kết với Hoa Kỳ và thắt chặt hơn nữa với Liên Xô. Ở Hà Nội tình hình thực tế cho thấy vũ khi Liên Xô đã giúp họ loại trừ sự đe dọa do bọn Pol Pot gây nên. An ninh lâu dài của họ ở Đông Dương chỉ có thể có được qua những thỏa ước và bảo đảm quốc tế. Vai trò chính trong cái trò chơi chính trị này vẫn là Hoa Kỳ, không phải chỉ ở việc Brzezinsky lập quan hệ chiến lược với Trung Hoa mà cũng còn phải thấy rằng mặc dù quan hệ mật thiết với Moscow, Việt Nam không phải là môt chế độ bù nhìn. (“Cuộc hôn nhân Việt-Xô không phải xảy ra ở thiên đưòng” Phụ tá bộ trưởng quốc phòng Richard Armitage nói với tôi như thế. Ông ta nghĩ rằng họ sẽ đụng đầu vào đá khi quan hệ hai bên lỏng lẻo đi vì quyền lợi của mỗi bên). Tuy nhiên, Hoa Kỳ chưa sẵn sàng đáp ứng lời kêu gọi của Đông Dương yêu cầu Hoa Kỳ trở lại để đóng một vai trò chính. Thât ra, chính quyền Reagan quan tâm đến việc hai ngàn năm trăm người Mỹ mất tích ở Đông Dương (“tài sản cao quí nhất của quốc gia” đối với Reagan) tạo cho Việt Nam một sức đẩy mạnh để lôi kéo Hoa Kỳ vào vòng đàm phán mới. Do những tín hiệu về phía Việt Nam khuyến khích, Rixhard Armitage đến thăm Hà Nội hồi tháng Hai/1982 để thảo luận về việc người Mỹ bị mất tích trong chiến tranh Việt Nam (MIA). Mặc dù không đạt được kết quả nào vững chắc, chuyến viếng thăm của một viên chức cao cấp chính phủ Hoa Kỳ, kể từ năm 1977 đến giờ làm cho Việt Nam cảm thấy bớt bị bao vây, làm cho Bắc Kinh và các nước Đông Nam Á phải quan tâm tới họ. Mặc dù mối quan tâm về vấn đề MIA đã thúc đẩy Hoa Kỳ xem xét lại chính sách của họ hồi giữa năm 1982, và Hà Nội cũng chẳng nhúc nhích chút nào về vấn đề Kampuchia. Kể từ đó, một vài cuộc họp cao cấp và thăm viếng có kết quả bằng việc hoàn trả một trăm bộ hài cốt người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam. Năm 1985, Hà Nội chấp thuận cho một nhóm người Mỹ đến Việt Nam để tìm kiếm những chuyến bay bị rơi trên lãnh thổ Việt Nam. Có điều hứa hẹn là họ có cố gắng đơn phương để giải quyết vấn đề MIA trong vòng hai năm. Đầu năm 1986, Armitage và phụ tá bộ trưởng ngoại giao về vấn đề Đông Á và Thái Bình dương Paul Wolfowitz hướng dẫn một phái đoàn cao cấp của chính phủ Mỹ tới Hà Nội kể từ khi phái đoàn của Leonard Woodcock trở về Hoa Kỳ hồi chín năm trước với bảo đảm hợp tác hoàn toàn mà không có điều kiện tiên quyết nào.
Hà Nội cũng tìm cách dụ hoặc Mỹ bằng cách mập mờ cho biết sẽ cho giảm mức độ Liên Xô xử dụng vịnh Cam Ranh. Cuối năm 1985, Hà Nội bóng gió cho Hoa Kỳ hay là vịnh Cam Ranh vẫn còn nằm trong tay họ kiểm soát và nếu như có một thỏa hiệp về vấn đề Kamupchia thì mức độ hiện diện quân sự của Liên Xô ở Cam Ranh sẽ giảm bớt. Mặc dù những lời bóng gío như thế cứ nói đi nói lại mãi, Hoa Kỳ vẫn còn hết sức nghi ngờ vì Việt Nam hay “mưu mẹo” ngay cả khi họ “chúi mũi” tới đề nghị đó. Hoa Thạnh Đốn không muốn dàn xếp cuộc thảo luận mà không gở rối cho các nước ASEAN, đặc biệt là tình hình Thái Lan.
Trong khi hoan hô sự hợp tác “nhân đạo” của Việt Nam như một hành động xác định rõ ràng cuối cùng tiến tới bình thường hóa quan hệ hai bên, Hoa Kỳ thường thường nhắc lại rằng việc bình thường hóa quan hệ đó sẽ không tiến hành cho đến khi nào Hà Nội rút quân khỏi Kampuchia. Về phía Việt Nam thì họ cho rằng việc hợp tác trên vấn đề MIA sẽ làm cho họ gặt hái được nhiều điều tốt. Hà Nội hy vọng trong bầu không khí cải thiện đó, Hoa Thạnh Đốn sẽ mềm mỏng hơn về vấn đề Kampuchia, Trung Hoa sẽ hòa hoãn hơn và ảnh hưởng từ phía Thái Lan cũng vậy. Ngay cả khi không có gì uyển chuyển hơn, Hà Nội cũng tính rằng việc tăng cường hợp tác với Hoa Kỳ sẽ làm giảm thiểu tinh thần chống Hà Nội ở Mỹ, xuyên qua vấn đề tù binh chiến tranh Mỹ vẫn còn bị giam giữ ở Việt Nam và sẽ làm hoãn trì bớt ý định của chính quyền Reagan hỗ trợ cho phong trào kháng chiến chống Việt Nam ở Kampuchia.