← Quay lại trang sách

Tuyết tan ở Liên Xô, Hà Nội lạnh lẽo

Sự có mặt của Liên xô ở Đông Dương và lực lượng quân sự của họ được xây dựng ở đây tiếp tục lớn mạnh ở hậu trường cuộc chiến tranh nhỏ Kampuchia. Chiến lược bắt buộc đằng sau “lá bài Hoa Kỳ” của Trung Hoa, tuy nhiên, hai năm sau chuyến đi Mỹ lịch sử của Đặng, (1979 - nd) chiến lược đó đã bắt đầu thay đổi. Liên minh chiến lược Hoa-Mỹ do Brzezinsky khó khăn mới đạt được hồi năm 1978 và sự phát triển của nó hồi năm 1980, khi Liên Xô tấn công Á-phủ-Hãn (Afghanistan) với những biện pháp hợp tác an ninh rộng lớn lại gặp khó khăn trong cuộc tranh cử với Ronald Reagan. (56) Trong khi vận động bầu cử, Reagan yêu cầu cải thiện quan hệ với Đài Loan. Việc này xảy ra đúng lúc vì những khó khăn chính trị nội bộ Trung Hoa bắt đầu làm cho người ta phải suy nghĩ lại việc gia tăng phối hợp chiến lược với Hoa Kỳ. Tại Hoa Thạnh Đốn, vì việc tranh cải bán vũ khí cho Đài Loan -hai bên vẫn chưa giải quyết được, đợi mãi đến tháng Chạp/1978, khi vội vã tái lập quan hệ bình thường- chính sách ngoại giao của Trung Hoa do Đặng chủ xướng nhằm thành lập một mặt trận chống Liên Xô -cả trong cuộc thế chiến thứ ba nữa -quan điểm chính là tìm kiếm chính sách hợp tác hơn đối đầu. Chính sách hợp tác đó thực hiện tại mỗi quốc gia -ngay cả Liên Xô và Đông Âu -ngoại trừ Việt Nam. Cuối năm 1981, phó thủ tướng Trung Hoa Lý Tiên Niệm tuyên bố Trung Hoa muốn mở lại các cuộc thương thảo bình thường với Moscow. Các cuộc thương thảo này đã bị ngưng từ khi Liên Xô xâm lăng Á Phủ Hãn.

Trả lời đề nghị mới của Trung Hoa - và rõ ràng có cố gắng lợi dụng sự căng thẳng quan hệ Hoa-Mỹ-, ngày 24 tháng Ba/12982, Brezhnev công khai kêu gọi cải thiện quan hệ với Trung Hoa. Ông ta không những nhắc cho Trung Hoa nhớ rằng Moscow không bao giờ ủng hộ chính sách hai nước Trung Hoa và cũng không còn nói tới việc Trung Hoa trước kia từng bị phê phán “phản bội chủ nghĩa Mác-Lê”. Brezhnev trấn an Bắc Kinh “Chúng tôi không khước từ và hiện giờ đây cũng không khước từ sự có mặt của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Trung Hoa.”

Chẳng bao lâu sau Trung Hoa đáp ứng bằng cách đề nghị Moscow rút lui ba trở ngại trong việc bình thường hóa quan hệ giữa hai bên. Những trở ngại này được xem là đe dọa an ninh Trung Hoa là: Liên Xô ủng hộ Việt Nam chiếm đóng Kampuchia, Liên Xô chiếm đóng Á-Phủ Hãn và triển khai một số lớn quân đội Liên Xô dọc theo biên giới Nga-Hoa. Trong vòng bảy tháng, việc thương thảo này được triệu tập.

Mặc dù Brezhnev có bảo đảm cải thiện quan hệ bình thường với Trung Hoa không “thiệt hại gì quyền lợi nước khác”, Hà Nội vẫn lo ngại khi các cuộc thảo luận này bắt đầu. Việt Nam thấy quyền lợi của họ thường bị các siêu cường anh em hy sinh để gặt hái quyền lợi chiến lược cho siêu cương. Từ mùa thu năm 1982, bảy vòng hội đàm đã diễn ra mà không cho thấy có gì làm giảm thiểu sự ủng hộ của Liên Xô. Rõ ràng Liên Xô không muốn mất quyền lợi quân sự của họ ở Việt Nam để làm vừa lòng Trung Hoa. Tuy nhiên, chẳng có gì rõ ràng về “các trở ngại” ngoại trừ kinh tế, thương mại giữa hai nước có cải thiện đáng kể. Năm 1985, hai bên trao đổi hơn bảy chục cuộc viếng thăm. Sau chuyến viếng thăm của một viên chức cao cấp Liên Xô -phó thủ tướng Ivan Arkhipov tới Trung Hoa hồi tháng Chạp năm 1984, và phó thủ tướng Trung Hoa Yao Yilin tới Moscow tháng Bảy/1985, Liên Xô thỏa thuận hiện đại hóa 17 nhà máy kỷ nghệ ở Trung Hoa và xây dựng thêm bảy nhà máy mới. Một thỏa ước ký năm 1985 qui định việc bụôn bán của họ phải gia tăng gấp 12 lần trong vòng 5 năm. Mặc dù Bắc Kinh chủ trương quan hệ chính trị sẽ không cải thiện nếu Liên Xô không từ bỏ những “trở ngại”, đặc biệt là ở Kampuchia, sự mở rộng quan hệ thương mại và các chuyến thăm viếng dành cho thanh niên đưọc thực hiện. Bộ trưởng ngoại giao của hai nước thành hình lịch trình thăm viếng thủ đô của nhau năm 1986.

Dĩ nhiên vẫn còn thiếu tin tưởng Moscow và quan tâm tới sự đe dọa lâu dài do Liên Xô áp đặt lên Trung Hoa. Trung Hoa vẫn tính toán quan hệ dài lâu với Moscow không những chỉ về quyền lợi kinh tế và áp lực tâm lý của Trung Hoa đối với Việt Nam và Việt Nam tìm kiếm thỏa thuận với Trung Hoa. Trong một hành động cho thấy rõ muốn gây hố chia rẽ giữa Moscow và Hà Nội, Đặng Tiểu Bình nói với một nhà lãnh đạo châu Âu hồi đầu năm 1985 là Trung Hoa không chống Liên Xô đặt căn cứ ở vịnh Cam Ranh nếu Việt Nam rút quân khỏi Kampuchia. Dù lời tuyên bố đó chỉ là một mưu đồ chiến thuật, buồn cười là nó khác với những gì hồi giữa thập niên 1970, khi Bắc Kinh không ngừng tố cáo Liên Xô theo chủ nghĩa bành trướng bằng việc đòi căn cứ Cam Ranh. Tuy nhiên, vì Liên Xô tỏ ý không quan tâm gì tới những lời tuyên bố của Trung Hoa, hồi đầu năm 1986, Bắc Kinh gia tăng tuyên truyền tấn công Liên Xô. Để trấn an Thái Lan và Hoa Kỳ, và báo cho Liên Xô biết vai trò Trung Hoa ở Kampuchia không yếu đi, Khmer Đỏ tăng cường bắn phá và tấn công trên bộ vào các lực lượng quân sự Việt Nam.

Trong khi đó, dưới thời Mikhail Gorbachov cai trị, họ trấn an Việt Nam, viện trợ kinh tế và quân sự của họ vẫn tiếp tục (trao đổi gia tăng hàng nông nghiệp xuất khẩu của Việt Nam và nghiêm nhặt trong việc điều hành viện trợ). Việc công khai ủng hộ vai trò của Việt Nam ở Kampuchia có dấu hiệu bớt nhiệt tình đi. Trong lần đầu tiên trình bày vấn đề Đông Nam Á, thứ trưởng ngoại giao Liên xô Mikhail Kapitsa gọi tình hình ở Kampuchia là “không đảo ngược” được và tiên đoán rằng”ba trở ngại Trung hoa đưa ra rồi sẽ phai mờ đi.” Tuy nhiên, trong chỗ riêng tư thì họ kém lạc quan. Họ cho rằng cứ tiếp tục xung đột sẽ làm cho “Hoa Kỳ rảnh tay ở Đông Nam Á”, làm cho quan hệ Liên Xô-Đông Nam Á thêm phức tạp và hạn chế Liên Xô tiếp cận với một trong những vùng sôi động nhất trên thế giới. Họ cũng chỉ ra cho thấy chủ nghĩa quốc gia của những người Khmer mới lên cầm quyền, tốt hơn là Việt Nam nên sớm rút quân khỏi Kampuchia. Tháng Chạp năm 1985, một chuyên viên hàng đầu của Liên Xô về vấn đề châu Á đường đột nói với tôi: “Việt Nam phải tìm cách thỏa hiệp với Trung Hoa. Họ không thể cho tình trạng thù địch trên biên giới kéo dài mãi.”