Chương 3 Quỷ thôn
Đỉnh Sơn nằm ở mé tây nam của Thần Châu, vì hình dáng giống một chiếc đỉnh mà có tên như vậy. Núi này rộng khoảng trăm dặm, rất nhiều cây cối, có cả những gốc cổ thụ ngàn năm vươn cao tới tận mây. Trên đỉnh ngọn núi xanh biếc ấy có một hồ nước thiên nhiên được gọi là Đỉnh Hồ. Nước ở Đỉnh Hồ đều là từ trên trời xuống, chẳng khác nào một viên minh châu rực rỡ trên cao ngàn trượng, dòng nước trong veo men theo sườn núi chảy xuống phía dưới, hệt như một con rồng bạc uốn lượn, nuôi dưỡng muôn vạn sinh linh trên núi, đồng thời trở thành nguồn nước tưới cho Đỉnh Sơn thôn ở dưới chân núi.
Khi mấy người Tiểu Trúc đến Đỉnh Sơn thôn thì đã là chiều tối, ánh tà dương lặng lẽ chiếu xuống thôn trang nhỏ bé này, khiến những làn khói bếp bốc lên đượcnhuốm một thứ màu đỏ ấm áp, từng làn gió thổi tới mang theo mùi thức ăn thơm lừng. Mặc Bạch đang ngồi trên vai Quy Hải Minh bất giác hơi chun mũi, sau đó giơ tay phải lên, tỏ ý có điều muốn nói.
“Con thấy sư phụ chẳng giống gấu trúc gì cả, phải gọi là gấu tham ăn mới đúng.” Tiểu Trúc bật cười trêu chọc. Mặc Bạch hậm hực trừng mắt nhìn sang, có điều ánh mắt ấy bị ảnh hưởng bởi quầng mắt đen thui bên ngoài, thành ra uy lực kém hơn hẳn.
Theo yêu cầu của sư phụ gấu tham ăn, ba người quyết định vào thôn trang này để kiếm thứ gì bỏ bụng rồi nghỉ ngơi một chút, chờ tới ngày hôm sau sẽ lên Đỉnh Sơn tìm kiếm Thanh Sương Tạp thảo. Ba người vừa mới đặt chân vào thôn thì đã nhìn thấy một người thợ săn đứng ở cửathôn lớn tiếng trò chuyện với hàng xóm: “Thím Lý này,thím nhìn tấm da này xem, tuyền một màu trắng ngần,không có một sợi lông tạp nào cả. Chờ đến khi vào đông,dùng nó để may áo cho thằng cháu của thím thì thích hợp lắm đấy!”
“Cứ nên để lại cho cháu nhà anh đi!” Vị đại thẩm mặt tròn đang ngồi nhặt rau trên chiếc ghế đấu ở cửa nhà cười nói với người thợ săn. “Hồng Phi nhà anh năm nay cũng đã ngoài hai mươi rồi, định bao giờ cưới vợ đây?”
Cuộc trò chuyện của những người dân nơi thôn quê lọt vào tai Tiểu Trúc, khiến nàng bất giác mỉm cười. Từ nhỏ tới lớn, nàng vẫn luôn sống trên núi Thanh Xuyên cùng sư phụ Mặc Bạch, chưa từng biết “hàng xóm” là như thế nào. Nàng không khỏi tò mò nhìn người thợsăn trước mặt, thấy ông ta thân hình cao lớn, râu mọc lởm chởm, mày rậm mắt to, thoạt nhìn ước khoảng hơn bốn mươi tuổi. Dường như ông ta vừa mới lên núi đi săn về, trên chiếc sào trúc sau lưng có treo hai con thỏ hoang và một con gà rừng. Nghe thấy lời của vịđại thẩm kia, người thợ săn cười vang, sang sảng nói: “Ai mà biết được thằng ranh kia bao giờ lấy vợ chứ! Thím cũng biết rồi đấy, da mặt nó mỏng lắm, mỗi lần hỏi nó đã có ý trung nhân chưa thì nó đều lặng thinh, chẳng chịu nói năng gì.”
Nói tới đây, người thợ săn khẽ lắc đầu vẻ hết cách, thế rồi ông ta chợt nhìn thấy một vị cô nương đang đứng ở cách đó không xa. Ông ta lập tức sững người, sau đó bèn ngước mắt lên chăm chú quan sát Tiểu Trúc từ trên xuống dưới một lượt. Đột nhiên, ông ta mừng rỡ vỗ đùi một cái thật mạnh, hô to một tiếng: “Xinh quá”, sau đó rảo bước đi tới, tươi cười rạng rỡ hỏi: “Cô nương là người ở đâu vậy? Trông mặt lạ quá, hình như ta chưa gặp bao giờ thì phải? Cô nương có bà con họ hàng gì ở đây ư? Năm nay mười mấy tuổi rồi? Đã có hôn phối gì chưa?”
Những câu hỏi của ông ta tựa như một tràng pháo nổ vang liên tục, khiến Tiểu Trúc nghe mà sững sờ. Quy Hải Minh cau mày lại, bước lên mấy bước chắn trước người Tiểu Trúc, dùng tấm thân cao gầy của mình để chặn ánh mắt dò xét của người thợ săn kia lại. Người thợ săn thấy thếthì bất giác ngẩn ra, sau đó đưa tay lên sờ cánh mũi, buồn bực nói: “Ôi, hóa ra là hoa đã có chủ rồi.”
“Lão Quách [1] , anh buồn cười quá đấy, làm người ta sợ rồi kìa.” Vị đại thẩm mặt tròn có chút bất mãn, đứng dậy kéo người thợ săn về, sau đó quay qua nhìn Tiểu Trúc và Quy Hải Minh, áy náy cười nói: “Hai vị chắc đều là người qua đường cả, xin đừng trách cứ! Lão Quách là ngườithẳng tính, nói năng không biết suy nghĩ, thực ra bụng dạ tốt lắm. Con trai nhà y không còn nhỏ nữa, thế nên y mới luôn muốn tìm một cô con dâu. Nhưng trong thôn chúng tôi chỉ có mấy hộ gia đình, chẳng có con gái nhà ai hợp tuổi, thành ra vừa nhìn thấy vị cô nương đây, y liền trở nên hồ đồ.”
[1] Ở Trung Quốc, đặt chữ “Lão” vào trước họ để gọi là một lối xưng hô thân mật với những người ngang tuổi hoặc hơn tuổi nhưng cùng vai vế.
Nghe thấy những lời trách cứ và giải thích của vịđại thẩm kia, người thợ săn bất giác đỏ bừng mặt mũi, sau đó xấu hổ nói: “Thực có lỗi quá, vừa rồi ta... Úi chà, con gấu trúc này trông tuyệt quá, béo tốt khỏe mạnh,đáng tiếc là hơi nhỏ một chút, nhưng sau này lớn lênchắc chắn sẽ là một tấm da thượng đẳng!”
Thấy tiểu cô nương đã có hộ hoa sứ giả, người thợsăn không nghĩ tới chuyện kiếm vợ cho con nữa, thế rồi ông ta chợt ngước mắt lên và để ý ngay tới tấm da của Mặc Bạch. Nghe thấy câu “béo tốt khỏe mạnh” kia, Tiểu Trúc không kìm được bật cười một tiếng, còn Mặc Bạch thì bất mãn chun mũi lại, sau đó dùng tay phải giơ cây gậy trúc xanh lên, không chút nể nang đánh mạnh một cái vào vai người thợ săn.
“Úi chà, con súc sinh này ghê thật, còn biết dùng gậy đánh người nữa cơ đấy.” Lão Quách chẳng để tâm gì tới cơn đau nơi vai, mở to mắt ngạc nhiên nói. “Đây rốt cuộc là gấu hay là khỉ vậy? Thông minh quá!”
Mặc Bạch sư phụ bất mãn khoanh hai tay lại trước ngực, ngoảnh đầu qua hướng khác, không thèm để ý tới đối phương. Quy Hải Minh vẫn chỉ lạnh lùng liếc nhìn đối phương, vẻ mặt hết sức băng giá, dường như chỉ cần đối phương lại gần thêm nửa bước, có thể uy hiếp đến Tiểu Trúc và Mặc Bạch thì y sẽ không chút do dự sử ra Hoang Hỏa Phần Thiên.
Thấy Quy Hải Minh mặt mày âm trầm, chừng như sắp đánh nhau với người ta đến nơi, Tiểu Trúc vội vàng đứng ra dàn hòa, cười nói với người thợ săn: “Chào Quách thúc, bọn cháu là người hái thuốc, đang định lên Đỉnh Sơn để tìm một ít thảo dược. Vừa khéo đi ngang qua quỷ thôn, lại gặp lúc trời sắp tối, thế nên bọn cháu mới muốn tìm một nơi để dừng chân nghỉ tạm.”
Giọng nàng nghe rất ngọt ngào, nụ cười tươi tắn, ăn nói lễ phép, chỉ riêng một tiếng “Quách thúc” đã khiến trái tim người thợ săn như mềm ra rồi. Ông ta lập tức cười tươi, nói: “Đơn giản thôi, nếu hai người không chê thì hãy tới nhà ta nghỉ tạm một đêm! Thứ khác ta không dám nói, nhưng thịt muối thì đảm bảo là có đủ!”
Dứt lời, người thợ săn liền nhiệt tình dẫn mấy người Tiểu Trúc đi vào trong thôn, vừa đi vừa quan sát Tiểu Trúc và Quy Hải Minh. Cuối cùng, ông ta khẽ lắc đầu vẻ nuối tiếc, chóp chép miệng cất lời than vãn: “Một vị cô nương dễ thương biết bao, thế mà lại đi theo một gã mặt lạnh hung dữ thế này. Thật đáng tiếc, sao tên tiểu tửthối Hồng Phi đó lại không có được vận may như vậy nhỉ?”
Nghe thấy những lời làu bàu đó, Quy Hải Minh hơi cau mày lại, vẻ mặt càng trở nên lạnh lùng. Mặc Bạch đang ngồi trên vai y chợt đưa hai tay tới, kéo hai khóe miệng của người thanh niên qua hai bên. Quy Hải Minh lập tức trở mặt, vung tay gạt tay Mặc Bạch xuống, sau đó giận dữ trừng mắt nhìn đối phương. Mặc Bạch khoanh tròn hai tay, ra vẻ khinh thường, bộ dạng như đang nói: Tiểu tử, muốn ra vẻ với ta ư, ngươi hãy còn non lắm!
Hai người bọn họ một thì trầm mặc ít nói, một thì có miệng mà chẳng thể nói năng, lúc này cứ thế lẳng lặng nhìn nhau, không ai chịu ai cả. Tiểu Trúc dở khóc dở cười, vội vàng kiễng chân lên bế Mặc Bạch từ trên vai Quy Hải Minh xuống, sau đó co ngón tay trở lại, khẽ cốc một cái lên trán gấu trúc. “Sư phụ, rắn con ca ca đã giúp đỡ chúng ta rất nhiều, còn cùng chúng ta đi tìm thuốc về để giải trừ cấm chế cho sư phụ, ngườilàm căng với huynh ấy làm gì chứ?”
Mặc Bạch đưa tay ôm trán, kêu lên “ô ô” như muốn nói: Tiểu nha đầu càng ngày càng lớn gan rồi đấy, lại dám cốc trán sư phụ ngươi nữa!
Tiểu Trúc cười hì hì, nói: “Con chỉ dùng chiêu gậy ông đập lưng ông thôi. Trước đây sư phụ cũng thường xuyên cốc trán con còn gì, có câu rằng kèo trên không thẳng thì kèo dưới cũng cong mà!”
“Ô ô!” Nha đầu ngươi thật xấu xa! Ngươi làm thế này rõ ràng là nhân lúc ta gặp khó khăn mà giở trò!
Tiểu Trúc cười giảo hoạt, nói: “Con chỉ là nhân lúc sư phụ không thể đáp trả mà nói cho sướng miệng thôi mà!”
Một người một gấu cứ thế vui vẻ tranh cãi, Quy Hải Minh chỉ lẳng lặng quan sát nụ cười của thiếu nữ bên cạnh, trong cơn ngơ ngẩn dường như đã quay trở lại buổi đêm tuyết rơi lất phất năm xưa. Trong thời điểm những bông tuyết lạnh băng chừng như đã nuốt chửng y, một đôi tay ấm áp và mềm mại đã kéo y ra từ trong bóng tối vô tận, đồng thời cũng kéo y ra khỏi nỗi căm hận vô biên khi muốn “giết sạch người trong thiên hạ”...
Đang khi Quy Hải Minh nhớ lại chuyện xưa, nhóm người đã đi tới trước cửa nhà người thợ săn họ Quách. Đúng như lời vị đại thẩm kia nói, Đỉnh Sơn thôn này rất nhỏ, từ nam sang bắc cũng chỉ đi mất mấy bước chân. Nhà của người thợ săn nằm ở phía bắc thôn, sau khi đi cùng ông ta tới nơi, Tiểu Trúc nhẩm tính một chút, thấy thôn này tổng cộng có bảy hộ gia đình, nhân khẩu có lẽ chỉ khoảng mười mấy đến hai mươi mấy người. Lúc này sắc trời đã dần tối, vầng tà dương treo lững lờ sát ngọn núi phía xa xa, ánh chiều tà lẳng lặng rọi xuống nóc ngôi nhà gỗ lợp mái cỏ. Người thợ săn gọi lớn một tiếng “Hồng Phi”, vậy nhưng chẳng có ai trả lời, bèn lẩm bẩm nói: “Tên tiểu tử thối này, lại đi đâu rồi nhỉ?” Đồng thời đẩy cửa ra, dẫn mấy người Tiểu Trúc đi vào trong nhà.
Căn nhà gỗ này không lớn nhưng rất sạch sẽ, gọn gàng, bàn ghế trong nhà đều được kê ngay ngắn. Trên tường có treo rất nhiều tấm da mà người thợ săn săn về được, sau cửa thì lủng lẳng hai miếng thịt muối, trên chiếc bàn gỗ bày sẵn một ấm trà và hai chiếc chén nhỏ. Người thợ săn họ Quách cầm ấm trà lên, rót cho Tiểu Trúc và Quy Hải Minh mỗi người một chén đầy, sau đó nhất quyết nhét vào tay hai người. Tiểu Trúc vừa cảm ơn vừa nhận lấy, đầu ngón tay chạm vào chén trà thì thấy khá nóng, hiển nhiên là ấm trà này vừa được pha xong chưa lâu.
“Nhà ta quả thực hơi nhỏ.” Người thợ săn cười nói. “Nhưng cơm với thịt thì đảm bảo có đủ, giường đệm cũng mềm mại, nếu hai đứa không chê thì hãy nghỉ tạm lại đây một đêm. Chờ lát nữa là thằng con ta cũng về thôi.”
Nói tới đây, khóe miệng ông ta hơi xịu xuống, để lộmột tia bất lực. “Trong thôn này, phần lớn đều là người già với trẻ con, Hồng Phi từ nhỏ đã không có bạn chơi cùng, thế nên lúc nào cũng trầm mặc ít nói giống nhưmột ông cụ non vậy. Hai đứa tuổi tác xấp xỉ nó, lát nữatrò chuyện với nó một chút cũng tốt.”
Nghe thấy câu nói này, Mặc Bạch khẽ thở dài một tiếng, đoán chừng là đang cảm khái về việc nuôi con không dễ. Nếu y có thể nói chuyện, lúc này ắt hẳn sẽ không kìm được trao đổi với người thợ săn kia một chút về những điều tâm đắc trong việc nuôi dạy con cái. Vậy nhưng lúc này y chỉ có thể ở yên trong lòng Tiểu Trúc, thế rồi y đột nhiên ưỡn ngực lên, cặp mắt đen láy nhìnlướt qua khuôn mặt thanh tú của vị tiểu cô nương đangbế mình một lượt, vẻ mặt đắc ý như muốn nói: Nhìn xem, ta nuôi con giỏi biết bao, con gái nhà ta vừa xinh đẹp lại vừa mau mồm mau miệng!
Lão Quách đang tiếp đãi khách khứa, chuẩn bị đi làm cơm tối, từ ngoài cửa đột nhiên vang lên tiếng chiêng dồn dập. Ông ta lập tức biến hẳn sắc mặt, vội vàng nói: “Mọi người đợi một lát!” Sau đó liền cầm lấy cung tên để cạnh cửa, lao vụt ra ngoài như một cơn gió. Qua cánh cửa mở rộng, Tiểu Trúc nhìn thấy rất nhiều người đã chạy ra khỏi nhà, đủ cả già trẻ lớn bé. Phụ nữ dùng chày đập quần áo không ngừng gõ vào chậu đồng, làm phát ra những tiếng “keng keng”, đàn ông thì cầm theo cuốc, thuổng, vừa chạy vừa hô lớn: “Phi đến rồi! Phi đến rồi!”
Phi ở Đỉnh Sơn? Lẽ nào chính là loài dị thú canh giữThanh Sương Tạp thảo? Nghe thấy vậy, ba người Tiểu Trúc lập tức chạy ra ngoài cửa, đi theo các thôn dân vào trong khu rừng ở mé tây thôn.
Dưới ánh tà dương, cả vùng rừng núi đều được khoác lên một lớp áo màu đỏ máu quỷ dị. Những tiếng bước chân hỗn loạn vang vọng liên hồi, khiến cho lũ chim kinh hãi vỗ cánh bay cao, lũ thú hoang nháo nhác bỏ chạy. Có mấy con sóc hoảng hốt trèo lên cành cao, ẩn nấp giữa những tán lá rậm rạp, ló đầu ra sợ hãi nhìn mười mấy thôn dân ở phía dưới.
Thợ săn Quách Vũ chạy trước nhất, bỗng nhìn thấy trong khoảng rừng rậm phía trước xuất hiện một mảng sương mù màu xám dày đặc, bèn giơ tay ngăn mọi người trong thôn lại. “Dừng!”
Nụ cười hào sảng trên mặt vị hán tử cao lớn tráng kiện này đã hoàn toàn biến mất, thay vào đó, sắc mặt ông ta trở nên tái xanh, đôi mắt nhìn chằm chằm vào màn sương mù, trong mắt ngợp đầy sự căm hận không thể nào che giấu được. Ông ta lật tay rút ra mấy mũi tên từ túi đựng tên sau lưng, sau đó lắp tên, giương cung. Cây cung được ông ta kéo căng hết cỡ, trên mu bàn tay hằn lên gân xanh. Ông ta cắn chặt răng, đột ngột buông tay, mũi tên tức thì xé gió bay đi vùn vụt, nhắm thẳng hướng màn sương mù kia mà lao tới.
Mũi tên lập tức bị màn sương mù nuốt chửng, Quách Vũ bước từng bước về phía trước, không ngừng giương cung bắn tên. Đột nhiên, từ trong màn sương mù màu xám vang ra một tiếng rên khe khẽ, dường như là tiếng kêu đau đớn của một loài động vật nào đó. Nghe thấy tiếng động, Quách Vũ nhường mày lên, khóe miệng hơi máy động, dường như đang cười, nhưng nụ cười lại cựckỳ khó coi, còn có mấy phần giống như đang khóc.
Chỉ thấy Quách Vũ lấy từ bên hông ra một cây đinh ba, sau đó cắn chặt răng cầm chắc nó trong lòng bàn tay, chuẩn bị xông vào trong màn sương mù dày đặc kia. Đột nhiên, một ông lão râu tóc bạc phơ chạy lên ôm chặt lấy eo Quách Vũ, nói: “Tiểu Quách [2] , cậu không muốn sống nữa ư? Tiểu Văn Tử ở trên trời đang dõi nhìn cậu đấy!”
[2] Đặt chữ “Tiểu” vào trước họ hoặc tên để gọi là một lối xung hô thân mật của người Trung Quốc với những người ít tuổi hơn bản thân và thường là sút kém hơn bản thân về vai vế, địa vị.
Nghe thấy tiếng quát của ông cụ đó, Quách Vũ toàn thân run rẩy. Lúc này đây, vị hán tử cao lớn tráng kiện ấy không ngờ lại đỏ hoe mắt, nhíu chặt mày, dường như đang cố hết sức nén nhịn. Nhưng ngay sau đó, ông ta đưa mu bàn tay lên lau khóe mắt, rồi chụp lấy cánh tay đang ôm chặt eo mình của ông cụ kia, cố gắng giãy giụa hòng thoát ra. “Từ thúc, xin hãy buông tay ra!”
Từ gia gia tuy đã ngoài sáu mươi nhưng vẫn nhất quyết không chịu buông tay, còn lớn tiếng khuyên nhủ: “Tiểu Quách, cho dù cậu không tiếc mạng sống thì cũng phải nghĩ tới Hồng Phi chứ! Hồng Phi còn chưa lấy vợ, cậu đành lòng để lại nó bơ vơ một mình trên cõi đời này ư?”
Nghe thấy câu nói này, Quách Vũ bất giác đờ người ra, rốt cuộc cũng thôi giãy giụa. Từ gia gia thấy thế thì thởphào một hơi, lẳng lặng buông tay ra. Quách Vũ cúi đầu xuống, nhìn mũi đinh ba nhọn hoắt đã bị ánh tà dương nhuốm thành màu đỏ máu trong tay mình, từ từ nắm chặt lại, khiến các đốt ngón tay đều trở nên trắng nhợt.
Hồi lâu sau, ông ta rốt cuộc cũng cài lại mũi đinh ba vào bên hông, sau đó đón lấy một dây pháo lớn từ trong tay Từ gia gia và châm ngòi nổ, dùng hết sức bình sinh ném mạnh vào trong màn sương mù tưởng chừng như vô biên vô tận.
Tiếng pháo lập tức đì đùng vang lên không ngớt giữa vùng núi rừng vốn hoàn toàn cách biệt với đời. Lũ chim thú nghe thấy tiếng động thì nháo nhác bỏ chạy ra tứ phía, các thôn dân thì gắng sức dùng chày đập quần áo gõ mạnh vào những chiếc chậu đồng, lớn tếng hô vang: “Xua dịch bệnh, đuổi vận xui, pháo nổ vang, Phi mau cút!”
Các thôn dân liên tục lẩm nhấm những lời này ba lượt. Một lát sau, màn sương mù dày đặc chậm rãi tan đi, cuối cùng hoàn toàn biến mất khỏi khu rừng. Các thôn dân thấy vậy thì bất giác thở phào một hơi, sau đó thu dộn đồ đạc chuẩn bị quay về. Từ gia gia thởdài, khẽ lắc đầu, đi tới khẽ vỗ lưng Quách Vũ một cái. Chính vào lúc này, một người thanh niên khoảng ngoài hai mươi tuổi chen ra từ giữa đám đông. Y vội vã chạy tới trước mặt Quách Vũ, nắm lấy cánh tay của ông ta, nôn nóng quan sát từ trên xuống dưới một lượt. “Cha, cha không sao chứ?”
Nhìn thấy người thanh niên này, Từ gia gia lập tức mừng rỡ nói: “Hồng Phi, cháu đến đúng lúc lắm, mau khuyên cha cháu đi, y lại bắt đầu hồ đồ rồi!”
Đừng thấy Quách Vũ cao to tráng kiện mà lầm, con trai ông ta, Hồng Phi, là một thanh niên vô cùng tuấn tú. Y mặc một bộ quần áo vải bó sát người, thân hình gầy guộc mỏng manh, không hề giống người luyện võ mà có mấy phần khí chất của một người đọc sách. Chỉ đángtiếc, khuôn mặt y hơi nhợt nhạt, giữa đôi hàng lông mày còn thấp thoáng nét âu lo, khiến y có mấy phần dáng vẻ già nua và ưu sầu không phù hợp với tuổi tác chút nào.
Nghe thấy lời của ông lão, Quách Hồng Phi gật đầu, nói một câu: “Cảm ơn Từ gia gia!” Sau đó, y lẳng lặng dõi măt nhìn ông lão rời đi rồi mới quay sang nhìn cha mình. Chỉ thấy hai mắt Quách Vũ vằn đầy tia máu, đỏ đến kinh người, khuôn mặt vốn hào sảng vui vẻ lúc nàybừng bừng lửa giận, trông bộ dạng như bất cứ lúc nào cũng có thể liều mạng với người ta. Hồng Phi cụp mắt xuống, bàn tay vốn đang giữ chặt lấy cánh tay Quách Vũ từ từ buông ra, sau đó khẽ cất tiếng gọi: “Cha...”
Quách Vũ ngoảnh đầu qua, hai tay lau mặt rồi mới xoay người lại, vung tay vỗ lên lưng Hồng Phi một cái, lớn tiếng nói: “Tiểu tử thối, đi nào, chúngta về nhà, hôm nay nhà chúngta có khách đấy!”
Dứt lời, Quách Vũ vòng tay qua khoác vai con trai mình, chuẩn bị về nhà. Nhưng vừa mới xoay người lại, ông ta đã nhìn thấy Tiểu Trúc đang bế gấu trúc đứng ởchỗ cách mình không xa, còn thanh niên cao lớn lạnh lùng kia thì lại chẳng rõ tung tích. Quách Vũ hơi nhướng mày lên, rảo bước đi tới trước mặt Tiểu Trúc, thấp giọng hỏi: “Tiểu cô nương, gã cao lớn kia đi đâu mất rồi? Y là người như thếnào của cô vậy?”
“Thúc muốn nói tới rắn…” Tiểu Trúc suýt thì lỡ lời, vội vàng nói chữa: “Quách thúc, thúc muốn hỏi về Quy Hải ca ca ư? Huynh ấy, huynh ấy buồn tiểu, đi một lát rồi sẽ về ngay.”
Hóa ra, vừa rồi khi Quách Vũ và các thôn dân dọa lui Phi và làm làn sương mù trong rừng tan đi, Quy Hải Minh đã thi triển yêu lực, thân hình lao vọt vào trong rừng với tốc độ nhanh như một cơn gió để tìm kiếm tung tích của Phi. Tiểu Trúc ngỡ rằng người thợ săn này muốn hỏi về tung tích của Quy Hải Minh, bèn tùy tiện nói bừa. Nàng đâu biết, trọng điểm trong câu hỏi củaQuách Vũ không phải như vậy. Vừa nghe thấy hai chữ “ca ca”, Quách Vũ vui mừng không lời nào tả xiết, vội vàng kéo Hồng Phi đến trước mặt Tiểu Trúc, cười nói: “Vị cô nương này đến Đỉnh Sơn để hái thuốc, lạ đất lạ người, tiểu tử thối, nếu có rảnh thì hãy dẫn người ta lên núi dạo chơi một chút nhé!”
Quách Hồng Phi làm gì mà chẳng biết mục đích của cha mình, bèn xấu hổ cúi gằm mặt, chẳng nói năng gì, sắc mặt càng trở nên nhợt nhạt.
Không lâu sau, Quy Hải Minh cũng từ trong rừng đi ra, sau khi lạnh lùng nhìn khắp mọi người một lượt liền khẽ lắc đầu với Tiểu Trúc và Mặc Bạch. Có điều, lần này bắt gặp thái độ lạnh lùng của y, Quách Vũ lại chẳng hềoán thán, còn nhiệt tình bước đến nghênh đón, ân cần nói: “Úi chà, tiểu ca chỉ đi tiểu thôi mà sao đi lâu vậy? Có phải là do thận hư không thế? Ngày mai ta sẽ ngâm cho cậu ít rượu lộc nhung, đảm bảo sẽ có hiệu quả!”
“…” Quy Hải Minh chẳng biết phải nói gì, chỉ hơi cau mày lại vẻ không vui. Riêng Mặc Bạch đang nằmbò trên vai Tiểu Trúc thì cười đến nỗi toàn thân run rẩy. Phát hiện ra ánh mắt chế giễu của Mặc Bạch, Quy Hải Minh lạnh lùng đưa mắt nhìn qua, thần sắc không giận tự uy, còn mang theo mấy tia cảnh cáo. Nhưng Mặc Bạch há lại bị y dọa nạt, lập tức trừng mắt nhìn lại đối phương, chẳng chút kiêng dè.
Đúng vào lúc này, Quách Vũ chợt vỗ lưng Quách Hồng Phi, xúi giục y gọi Quy Hải Minh một tiếng “đại ca”. Mặc Bạch nghe thấy thế thì thôi không trừngmắt nữa, chuyển sang cười sằng sặc, “bộp” một tiếng rơixuống khỏi vai Tiểu Trúc, ngã chổng vó lên trời.
***
Vầng tà dương đã lặn, màn đêm từ từ buông xuống.
Trong ngôi nhà gỗ nhỏ bé, ánh nến nhè nhẹ đung đưa, mang lại cảm giác hết sức ấm áp. Trên bàn bày bốn đĩa thức ăn, lần lượt là vịt nướng, lạp xưởng, cải luộc và đậu phụ nhự, tuy chỉ là những món ăn dân đã bình thường nhưng cũng đủ khiến người ta phải nhỏnước dãi.
Quách Vũ đưa tay tới xé hai chiếc đùi vịt bóng loáng dầu mỡ, lần lượt bỏ vào trong bát của Tiểu Trúc và Quy Hải Minh, sau đó cất tiếng cười vang, sang sảng nói: “Nhà ta ở gần núi, không có điểm nào tốt cả, duy có một điều hay là không thiếu thịt thú rừng. Tiểu cô nương, tiểu ca, hai người mau nếm thử xem tài nấu nướng của Hồng Phi nhà ta thế nào!”
Người thợ săn không ngừng nói tốt cho con mình, song Quách Hồng Phi thì lại một mực cúi đầu ăn cơm với rau cải luộc. Bộ dạng này của y khiến Quách Vũ rất không vừa ý, ông ta vung tay vỗ mạnh vào sau gáy Hồng Phi, hậm hực mắng: “Tên tiểu tử thối này, mau nói gì đi chứ! Sao từ nãy đến giờ mi cứ im thin thít thế hả?”
Bị cha mình vỗ cho một cái, Hồng Phi thiếu chút nữa thì cắm đầu vào bát cơm. Y ngước mắt lên, liếc nhìn Tiểu Trúc và Quy Hải Minh một chút, khẽ nói: “Mau ăn cơmđi nào!” Sau đó lại tiếp tục cúi đầu xuống. Quách Vũ thấy thế thì giận dữ vô cùng, liền đưa tay với lấy vò rượu để dưới đất, rót đầy một bát lớn, sau đó ngửa đầu uống một hơi cạn sạch.
Mùi rượu nồng đậm nhanh chóng lan tỏa khắp xung quanh. Mặc Bạch hít sâu một hơi, thò hai tay ra, nhẹ nhàng gõ xuống mặt bàn. Nhìn thấy động tác của y, Quách Vũ tấm tắc khen lạ, sau đó vội vàng hỏi Tiểu Trúc: “Con gấu trúc này bị sao vậy?”
Tiểu Trúc dở khóc dở cười, vừa đưa tay xoa lưng Mặc Bạch vừa khẽ nói: “Có gì đâu, nó thèm rượu đấy mà.”
Quách Vũ nghe thế thì cười vang, lấy thêm một chiếc bát khác và rót đầy, sau đó đẩy tới trước mặt Mặc Bạch. Mặc Bạch ngồi luôn lên bàn, vừa gặm trúc vừa uống rượu, trông bộ dạng thực vô cùng vui vẻ. Quách Vũ nhìn mà bật cười, liền cầm bát lên cụng với chiếc bát trong tay Mặc Bạch, nói: “Hà hà, đúng là một con gấu trúc đặc biệt, cạn nào!”
Rượu được ba tuần, thức ăn cũng đã nếm đủ, Quách Vũ mượn hơi rượu tỉ tê trò chuyện với Mặc Bạch mộtphen, một người một gấu chẳng mấy chốc đã uống hết nửa vò rượu lớn. Quách Hồng Phi rốt cuộc không nhịn được nữa, giằng lấy bát rượu từ trong tay Quách Vũ, cất lời can ngăn: “Cha, đừng uống nữa!”
“Uống! Sao lại không uống chứ?” Quách Vũ lớn tiếng hỏi ngược lại, nhưng giọng nói nghe đã hơi run rẩy. “Hồi Tiểu Văn Tử mới hai tuổi, ta đã dùng đũa chấm rượu cho nó mút rồi…”
Nói tới đây, hai mắt Quách Vũ lại một lần nữa đỏ hoe. Khuôn mặt Quách Hồng Phi vốn đã nhợt nhạt, lúc này lại càng tái đi. Tiểu Trúc thấy vậy thì bất giác lo lắng hỏi: “Huynh không sao chứ?”
Quách Hồng Phi khẽ lắc đầu, tỏ ý rằng mình không sao. Còn người cha lúc này đã say túy lúy của y thì nghiêng ngả ghé lại gần, muốn giành lại bát rượu từtrong tay y. Hồng Phi đột ngột đứng bật dậy, đi tới mởcửa sổ, hắt hết rượu trong bát ra ngoài. Quách Vũ thấy thế thì xót ruột rít lên từng hồi, trừng mắt giơ tay định đánh con trai, nhưng bàn tay lại dừng giữa không trung, run rẩy liên hồi, cuối cùng chậm rãi buông xuống, vỗnhẹ lên vai Hồng Phi một cái, bất mãn làu bàu: “Cái… cái thằng tiểu tử thối này…”
Vị hán tử đã ngoài bốn mươi tuổi ấy lúc này giống như một đứa trẻ, cứ thế ôm chặt lấy vò rượu không chịu buông tay, ngẩn ngơ ngồi đó chẳng nói năng gì. Quách Hồng Phi khẽ thở dài một tiếng, không để ý tới vò rượu trong lòng ông ta nữa, quay sang thu dọn đống bừa bộn trên bản, đồng thời áy này nói với Tiểu Trúc và Quy Hải Minh: “Thật có lỗi quá, đã làm trò cười cho hai vị rồi.”
“Không sao, xét kĩ ra thì cũng tại sư phụ... tại Tiểu Bạch nhà ta không đúng, thếnên mới khiến Quách thúc uống nhiều như vậy.” Tiểu Trúc áy náy nói, đồng thời đưa mắt lườm Mặc Bạch. Nhưng Mặc Bạch chỉ thản nhiên đưa tay lên xoa cái bụng đã căng tròn, sau đó hơi nhún vai, trông bộ dạng như muốn nói: “Đều tại y tửulượng kém cỏi, đâu liên can gì tới ta!” Hoàn toàn chẳng có chút vẻ hối lỗi nào.
Quy Hải Minh đột nhiên cất tiếng, lạnh lùng hỏi: “Huynh đài có biết Phi ở đâu không?”
Xoảng...
Chỉ nghe một âm thanh giòn tan vang lên, hóa ra vò rượu mà Quách Vũ ôm trong lòng lúc này đã rơi xuống đất, vỡ tan thành nhiều mảnh nhỏ. Quách Hồng Phi toàn thân run rẩy, vội bỏ chồng bát đĩa trong tay xuống, nhỏ giọng dặn dò: “Cha, cha đừng động đậy!” Sau đó ngồi xuống bên chân Quách Vũ, cẩn thận nhặt những mảnh sành vụn lên.
“Chuyện làm Lão Quách ta hối hận nhất trong cuộc đời này chính là năm đó đã dẫn theo Tiểu Văn Tử lên núi…”
Hán tử tráng kiện này đã không còn dáng vẻ hào sảng khi trước, hiện giờ, bờ vai ông ta sụp hẳn xuống,khuôn mặt sau nháy mắt đã như già đi mười mấy tuổi, bàn tay phải đặt trên đầu gối từ từ nắm chặt lại thành quyền, những đường gân xanh bên trên đều lộ rõ.
“Mười hai năm trước, ta không biết đã nổi cơn điên thế nào, dẫn Tiểu Văn Tử lên núi đi săn. Khi đó, Tiểu Văn Tử mới có tám tuổi, nhưng đã học thuộc mười mấy bài thơ, mọi người đều nói nó là một nhân tài, sau này không cần phải ở lại trong núi cả đời, có thể thi đỗ trạng nguyên…”
Những chuyện xưa cũ như gió mây thoáng qua trước mắt, lần lượt lóe hiện trong lòng. Ông ta vẫn còn nhớ rõ bộ dạng của thằng bé đó khi mới cao chưa tớiđầu gối mình, nó cứ kéo ống quần ông mà gọi “Cha ơi, cha ơi” không ngừng, sau đó bắt đầu đọc thơ, cái dáng vẻ gật gù đắc ý của nó khiến ông không kìm được cười vang. Từ thúc nói người đọc sách cần phải có tên chữ, bèn đặt tên chữ cho thằng bé là “Thư Văn”, từ đó mọi người trong thôn không còn gọi thằng bé bằng tên mụlà A Bảo nữa, thay vào đó là cái tên “Tiểu Văn Tử”, hy vọng sau này nó có thể đề tên bảng vàng, làm rạng rỡtổ tông. Thế nhưng, tất cả mọi niềm hy vọng đều đã bịchôn vùi trong mùa hè nóng nực năm đó...
Khi đó đang là ngày Tam phục [3], Tiểu Văn Tử ở trong nhà khổ học thi thư, mồ hôi chảy ra ròng ròng. Quách Vũ nhìn mà xót xa, liền bảo con theo mình lên núi đi săn, nhân tiện tránh nóng. Tiểu Văn Tử nghe thấy thế thì vui vẻ vô cùng, lập tức lon ton chạy theo cha lên Đỉnh Sơn. Đường núi gập ghềnh khó đi nhưng trong rừng lại rất mát mẻ. Sợ thằng nhóc đi nhiều sẽ mệt, Quách Vũ liền bếnó đặt lên một gốc long não cổ thụ, dặn nó có việc gì thì cứ hét lên thật to. Tiểu Văn Tử xưa nay vốn rất ngoan ngoãn, ông ta cũng không lo lắng gì nhiều, liền xách cung tên đi tiếp. Nhưng khi ông ta xách theo con mồi săn được quay lại chỗ gốc long não cổ thụ đó thì không thấy bóng dáng con mình đâu nữa.
[3] “Phục” ở đây có nghĩa là “nằm nghỉ, tránh xa trời nóng bức”. Thông thường, mỗi năm có một kỳ “Tam phục” và được chia làm “Sơ phục”, “Trung phục” và “Mạt phục” là một quãng thời gian kéo dài ba mươi hoặc bốn mươi ngày và được coi là nóng bức nhất trong năm.
Quách Vũ nôn nóng chạy quanh khắp phía, không ngừng gọi lớn tên con trai. Chính vào lúc đó, ông tanhìn thấy ở mé đông của khu rừng có làn sương mù lởn vởn, sau đó sương mù không ngừng lan rộng, đi tới nơi nào là nơi đó suối cạn khô, cỏ cây héo rũ, khung cảnh trở nên hết sức điêu tàn. Ông ta thầm kinh hãi, vội gọi lớn tên con trai lần nữa. Không lâu sau, từ trong làn sương mù có một bóng người đi ra, chính là Tiểu Văn Tử. Thằng bé giơ cao hai tay, hưng phấn chạy về phía ông ta, cười híp mắt, nói: “Cha ơi, cha, con vừa nhìn thấy một con bò thú vị lắm.”
Ông ta vô cùng vui sướng, tức thì bế thằng bé lên màôm chặt vào lòng. Tiểu Văn Tư ghé sát tai ông ta, cườihì hì, nói: “Con bò đó trông lạ lắm, đầu màu trắng, đuôinhư đuôi rắn, hơn nữa còn chỉ có một con mắt. Nhưngnó đã bị thương, cứ chảy nước mắt mãi. Con phải tìmsuốt một hồi lâu mới thấy dưới bụng nó cắm một mũigai rất dài. Con phải tốn mất rất nhiều sức lực mới nhổ được mũi gai đó ra đấy. Cha ơi cha, cha nói xem TiểuVăn Tử có giỏi không nào?”
“Giỏi lắm!” Quách Vũ tiện miệng nói. Ông ta cảm thấy trán con trai hơi nóng, bèn đưa tay lên sờ thử, lập tức phát hiện thằng bé bị sốt cao. Ông ta là người quê mùa thô kệch, thường ngày đừng nói là đọc sách, ngay đến những câu chuyện dân gian cũng chẳng biết được bao nhiêu. Lúc này, nghe thấy những lời nói của con trai, lại thấy thằng bé bị sốt, ngỡ rằng Tiểu Văn Tử ham chơi nên bị trúng gió, đâm ra ăn nói linh tinh, liền vội vàng bế con trai về thôn. Sau khi về đến nhà, Quách Vũ lại sờ trán con trai lần nữa, phát hiện nhiệt độ đã giảm hẳn,chẳng khác người thường chút nào, lập tức yên tâm hẳn,không hề lo nghĩ gì nhiều.
Sau một đêm bình lặng, đến sáng sớm ngày hôm sau,khi ông ta gọi Tiểu Văn Tử thì lại không cách nào đánh thức thằng bé được. Ông ta lật chăn lên, thò tay vào định cù nách con trai, nhưng lại chạm phải một mảng da thịt lạnh ngắt.
Chỉ thấy Tiểu Văn Tử hai mắt nhắm chặt, đôi môi tái mét, trên khuôn mặt sạch sẽ đã không còn vẻ hồng hào, thay vào đó là một màu trắng nhợt lạnh giá. Thì ra thằng bé mới chỉ tám tuổi đã qua đời từ lâu.
Quách Vũ ôm chặt con trai, gào lên như phát điên, muốn dùng nhiệt độ cơ thể của mình để sưởi ấm cho con trai nhưng chẳng có chút tác dụng.
Có lẽ vì nghe thấy tiếng gào khóc, mấy người hàng xóm láng giềng ở xung quanh liền ghé lại xem có chuyện gì, không lâu sau, ngay đến Từ gia gia cũng tới. Được Từgia gia hỏi chuyện, Quách Vũ liền kể lại những việc đã gặp phải hôm qua. Nghe xong, Từ gia gia cả kinh nói: “Đầu trắng đuôi rắn, chỉ có một mắt, hình dáng lại giống bò, vậy thì đích thị là Phi rồi! Hỏng bét, hỏng bét, Tiểu Văn Tử mắc phải ôn dịch rồi!”
Nghe thấy hai chữ “ôn dịch”, mọi người hoảng hốt lùi lại phía sau. Ngay đến Từ gia gia bấy lâu vốn luôn thương yêu Tiểu Văn Tử cũng không dám lại gần thằng bé đáng thương ấy nữa. Ông lão thở dài một hơi, nói với Quách Vũ: “Tiểu Quách, đừng trách lão già ta đây độc ác, nhưng Tiểu Văn Tử không thể nhập thổ được, cậu…”
“… Tuy Từ thúc không nói tiếp nữa, nhưng đạo lý của ông ấy thì ta hiểu.” Những câu chuyện xưa cũ khiến cặp mắt của người thợ săn tráng kiện ấy đỏ hoe, sau khi hít sâu một hơi, Quách Vũchậm rãi nói tiếp: “Hôm đó, ta đã tự tay tiễn Tiểu Văn Tử đi, dùng một mồi lửa hỏa táng nó. Thằng bé ấy vừa thông minh vừa ngoan ngoãn, nhưng ta còn chưa kịp đợi nó thi đỗ trạng nguyên, nó mới tám tuổi, ấy vậy mà đã chỉ còn là một nắm tro tàn… Tại ta, tất cả đều là lỗi của ta…”
Nói tới đây, Quách Vũ không sao nói tiếp được nữa. Ông ta đưa đôi bàn tay hằn rõ gân xanh lên, ôm chặt khuôn mặt mình, hai vai không ngừng run lẩy bẩy.
Chuyện xưa mà Quách Vũ kể lại khiến tất thảy mọingười đều buồn bã. Quy Hải Minh vốn vừa hỏi về tung tích của Phi, lúc này chỉ im lặng, không nói năng gì, khuôn mặt anh tuấn vẫn nguyên vẻ lạnh lùng khó gần, song đôi tay thì nắm chặt thành quyền, khiến cho những đốt ngón tay trở nên trắng nhợt. Mặc Bạch ngồi trên bàn, đôi tay ngắn ngủn khoanh trước ngực, cái đầu lông lá lắc qua lắc lại vẻ hết cách. Còn Tiểu Trúc thì không kìm được đưa tay tới, khẽ xoa lưng Quách Vũ, dịu giọng an ủi: “Quách thúc, xin thúc đừng nên tự trách mình nữa, Tiểu Văn Tử ở trên trời có linh thiêng ắt cũng không muốn nhìn thấy thúc thương tâm buồn bã thế này đâu. Sư phụ từng nói với con rằng đạo trời mênh mang. Tiểu Văn Tử lòng mang thiện ý, sẵn sàng giúp đỡ người khác,tuy kiếp này chết yểu nhưng mọi việc đã được đấng cao xanh soi xét thấu tỏ cảrồi, sang kiếp sau ắt sẽ có được một cuộc sống tốt đẹp!”
Quách Vũ vội vã hỏi: “Thật vậy chứ?”
“Thật mà!” Tiểu Trúc gật đầu một cái, nở nụ cười rạng rỡ. “Sư phụ con nói rồi, thiện có thiện báo, ác có ác báo, không phải không báo, chỉ là chưa báo. Quách thúc, con biết là nhắc lại chuyện xưa thếnày, thúc nhất định vô cùng thương tâm, nhưng cứ coi như là vì Tiểu Văn Tử đi, cũng là vì Hồng Phi nữa, thúc đừng nên đau buồn quá, hãy cười lên một cái được không nào?”
Nghe nàng nhắc đến Hồng Phi, Quách Vũ bất giác buông tay xuống, ngước mắt lên, vừa khéo nhìn thấy người thanh niên gầy gò đang đứng ngay trước mặt mình. Chỉ thấy Quách Hồng Phi lúc này đang nhìn Quách Vũ bằng ánh mất hết sức âu lo, bộ dạng vô cùng lúng túng, dường như không biết nên an ủi cha mình thế nào.
“Con người ta sống trên đời, chuyện không như ý thực nhiều không kể xiết, nếu mỗi lần như vậy đều buồn bã ủ dột, vậy thì sớm muộn gì cũng sẽ bị liệt mặt. Càng là lúc thương tâm thì càng phải cười, cười để cổ vũ bản thân, cũng là để cho những người quan tâm tới mình nhìn thấy. Quách thúc, xin thúc hãy bớt đau buồn. Thúc mà cứ như thế này, chắc hẳn Hồng Phi sẽ càng buồn hơn đấy.”
Lời của Tiểu Trúc khiến Quách Vũ bất giác ngẩn ra. Một hồi lâu sau, người thợ săn ở nơi sơn dã dùng mu bàn tay lau khóe mắt, sau đó đưa tay vỗ mạnh một cáilên vai con nuôi mình, cố hé môi nở một nụ cười khá khó coi. “Đúng vậy, ta còn có Hồng Phi nữa mà. Ta là người làm cha, không thể để tên tiểu tử thối này vì ta mà lo lắng được...”
“Cha, cha đừng nói nữa!” Quách Hồng Phi tiện tay kéo tay cha mình khoác qua cổ, sau đó dìu hán tử tráng kiện ấy tới bên giường, đỡ ông ta nằm xuống, lại cởi giày và tất ra cho ông ta, đắp chăn cho ông ta cẩn thận.
Chăm sóc cho cha mình xong, Quách Hồng Phi lại bận rộn chuẩn bị giường đệm cho mấy người Tiểu Trúc, sau đó nói: “Thật có lỗi quá, nhà ta nhỏ hẹp, vốn định nhường hai chiếc giường cho hai vị, nhưng cha ta bây giờ đang say…”
“Không sao, không sao đâu mà, có một ngôi nhà để chemưa chắn gió thế này là chúng tôi đã cảm kích lắm rồi.” Tiểu Trúc vội vàng xua tay, đồng thời tươi cười cảm ơn.
Cuối cùng, Quách Hồng Phi ở lại gian ngoài để chăm sóc cho Quách Vũ, còn Tiểu Trúc, Mặc Bạch và Quy Hải Minh thì nghỉ tạm ở gian trong. Vừa mới vào phòng, Mặc Bạch đã nhảy ra khỏi lòng Tiểu Trúc, sau đó lật đật chạy đi kéo một chiếc ghếdài ra để ngay ở cửa, lại kéo tà váy Tiểu Trúc và chỉ về phía giường, kế đến thì kéoống quần của Quy Hải Minh, chỉ về phía chiếc ghế. Sau đó, y dùng cả tay lẫn chân trèo lên bàn, ngồi luôn ở đó, hai tay khoanh trước ngực, mặt hướng về phía trước ghế, nhìn chằm chằm vào Quy Hải Minh, rõ ràng là có ý cảnh cáo rằng: Ngươi đừng hòng có ý đồ gì xấu.
Quy Hải Minh lạnh lùng liếc nhìn Mặc Bạch, ánh mắt chếgiễu, thế rồi không nói một lời ngồi xuống chiếc ghếdài, lưng ưỡn thẳng tắp, thân hình bất động như một ngọn núi. Tiểu Trúc thì nằm xuống chiếc giường gỗ kia, để nguyên quần áo mà ngủ. Mặc Bạch ngồi đó nhìn Quy Hải Minh bằng ánh mắt đề phòng được một lúc thì hai mắt bắt đầu hấp háy liên hồi, cuối cùng không sao ngăn được cơn buồn ngủ nữa, tấm thân tròn xoe đổ nhào vềphía sau, chân tay cuộn lại tạo thành một quả cầu nửa đen nửa trắng.
***
Giờ Tý.
Đêm đã về khuya, mây trôi lãng đãng.
Dưới vầng trăng sáng, làn sương trắng bạc phủ trên mặt đất hiển hiện rõ ràng. Những giọt sương đêm nơi đầu ngọn có nhìn chẳng khác nào những viên ngọc lóng lánh, chợt một làn gió đêm thổi tới, vầng trăng tức thì bịche phủ, vạn vật chìm vào trong sự âm u. Ánh trăng đã không còn nữa, sương mù cuồn cuộn dâng lên, che phủthôn nhỏ nơi sơn dã. Sương mù tràn đến nơi nào, cỏ cây nơi đó tức thì héo rũ, chiếc chuông gió treo dưới mái hiên vốn rung rinh không ngớt, lúc này chợt trở nên gỉ sét loang lổ, lẳng lặng buông lơi ở đó.
Khí lạnh chợt dâng cao, yêu khí nổi lên dữ dội. Quy Hải Minh đột ngột mở bừng mắt, sau đó lấy thanh Bàn Long thương từ trên lưng xuống, nắm chặt trong bàn tay phải, đồng thời đứng dậy đánh thức Mặc Bạch và TiểuTrúc. Tiểu Trúc giật mình tỉnh dậy từ trong giấc mộng, vẫn còn có chút mơ màng, vừa dụi mắt vừa khẽ cất tiếng hỏi: “Rắn con ca ca, có chuyện gì vậy? Úi chao!”
Nàng kinh ngạc mở to hai mắt, bất ngờ phát hiện căn phòng vốn sạch sẽ chỉnh tề lúc này đã trở nên hoang tàn nhếch nhác, khắp nơi giăng đầy mạng nhện, trên chiếc bàn gỗ bị phủ một lớp bụi rất dày, còn có rất nhiều dấu vết do Mặc Bạch để lại; ô cửa sổ ở phía đối diện đã bị rơi mất một cánh, cánh còn lại thì nghiêng nghiêng ngả ngả trên khung cửa sổ, chừng như bất cứ lúc nào cũng có thể rơi xuống... Cảnh tượng này chẳng giống một nơi thường xuyên có người cư trú chút nào, cứ như đã bị bỏhoang hơn mười năm rồi vậy.
“Đi nào!” Quy Hải Minh nhíu chặt đôi mày, lạnh lùng nói. Sau đó, y vung chân đá bay chiếc ghế dài, đẩy cánh cửa gỗ của phòng trong ra. Chỉ nghe “két” một tiếng, từng mảng bụi đã bám trên cửa lâu ngày lả tả rơi xuống, kế đó tình cảnh ở phòng ngoài cũng đập vào mắt bọn họ, trông còn tồi tàn hơn cả phòng trong.
Chiếc bàn gỗ nhỏ mới mấy canh giờ trước bọn họ còn ngồi quây quần dùng cơm lúc này đã phủ đầy bụi bặm, hơn nữa còn bị gãy mất một chân, bát đĩa thì rải rác khắp nơi, nhiều chiếc còn vỡ vụn thành từng mảnh nhỏ. Sau cửa vẫn treo lạp xưởng và thịt muối nhưng đều đen thui và cứng ngắc, xem chừng còn cứng hơn cả đá. Còn trên chiếc giường gỗ ở giữa phòng thì bị phủ một lớp mạng nhện rất dày, mạng nhện hơi gồ lên ở giữa, dường như có một người đang nằm trên đó.
Quy Hải Minh rảo bước đi tới, dùng mũi thương gảy mạng nhện ra. Chỉ thấy trên giường có một cái xác khô, mặt mũi sớm đã chẳng thể nhận dạng được nữa, bên cạnh cái xác còn đặt một cây cung, trông chẳng khác nào cây cung mà Quách Vũ từng dùng.
“Quách thúc?” Tiểu Trúc cả kinh bật thốt.
“Thôn này rất lạ, hãy theo ta!” Quy Hải Minh trầm giọng nói, xách theo Bàn Long thương đi trước mởđường. Tiểu Trúc bế Mặc Bạch lên, theo sát phía sau. Quy Hải Minh vung tay đánh bay cửa lớn, khiến cho bụi đất bốc lên mù mịt. Bên ngoài phủ dày sương mù, ánh trăng hết sức mơ hồ, chẳng thể nhìn rõ thứ gì.
Tiểu Trúc giơ tay phải lên, hai ngón tay khép lại vẽra một trận pháp giữa hư không, đoạn lẩm nhẩm niệm: “Trì Phong quyết.”
Lập tức, giữa màn đêm nổi lên một cơn gió mát khiến sương mù bị thổi bay, vầng trăng sáng trong lại mọt lần nữa xuất hiện.
Dưới ánh trăng, khung cảnh trong thôn trang toátra một vẻ hoang vu khó tả, khắp nơi đều là cỏ héo khô, ngay đến một tiếng côn trùng kêu cũng chẳng có, bốn bề vô cùng tịch mịch. Các căn nhà lại càng cũ nát tiêu điều, chừng như sắp sập, những chiếc bừa sắt, cào sắt vốn đểtrên giá gỗ bên ngoài đều đã bị han gỉ, xem bộ dạng thì rõ ràng đã phải trải qua rất nhiều năm nắng gió.
Lúc ban ngày, thôn trang này vẫn còn hết sức yên bình, ấy vậy mà giờ đây lại ngợp đầy tử khí, khiến Tiểu Trúc không khỏi cả kinh. Nàng vội chạy vào một nhà dân, liền thấy bên trong toàn xác chết, chẳng khác gì nhà của Quách Vũ.
“Sư phụ, chuyện này rốt cuộc là sao vậy?” Tiểu Trúc quay qua nhìn Mặc Bạch, nhưng Mặc Bạch cũng chỉ biết nhún vai lắc đầu, tỏ ý rằng mình cũng không biết.
Đúng vào lúc này, từ nơi cửa thôn ở đằng xa bỗng loáng thoáng vang lại những tiếng vũ khí va chạm. Tiểu Trúc và Quy Hải Minh đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng chạy về hướng phát ra âm thanh. Trong khi chạy, bọn họ thấy ở bên đường cứ cách vài trượng lại có một quả cầu ánh sáng màu xanh lục treo lững lờ giữa không trung. Tổng cộng có mấy chục quả cầu ánh sáng kết hợp lại với nhau tạo thành một thứ trận pháp ngợp đầy yêu khí, bao bọc toàn bộ thôn trang nhỏ này.
Nhưng mấy người Tiểu Trúc chẳng có tâm trạng đâu mà đểý tới trận pháp này, bởi lẽ tiếng vũ khí va chạm đã ở rất gần. Chỉ thấy ở nơi cửa thôn có một bóng dáng gầy gò quen thuộc, chính là Quách Hồng Phi. Y đang cầm một cây đinh ba, đó vốn chỉ là một dụng cụ bình thường của nhà nông, vậy nhưng khi ở trong tay y lại lấp lánh tỏa ra những tia sáng màu tím, hệt như được những tia sét vờn quanh.
Người thanh niên mà lúc ban ngày có vẻ thẹn thùng ít nói đó lúc này không ngờ lại gầm vang giận dữ, cất tiếng hô to vang thấu trời xanh: “Cửu Thiên Tuyệt Lôi!”
Lập tức, từ trên cây đinh ba bừng lên những tia sáng màu tím chói lòa, tất thảy cùng lao vút lên bầu trời đêm mù mịt. Sau chốc lát, giữa hư không vang lên tiếng sấm rền dữ dội, giữa trời đất đột nhiên xuất hiện mấy tia sétkhổng lồ, sau đó tất cả cùng giáng xuống làm bụi đất bay lên mù mịt.
Giữa tiếng sấm sét vang rền ấy, đột nhiên có một giọng nói lạnh lùng vang lên: “Yêu nghiệt, chớ có chấp mê bất ngộ [4] nữa!”
[4] U mê, không chịu tỉnh ngộ.
Đất bụi tan đi, Tiểu Trúc định thần nhìn kĩ, thấy đứng ở phía đối diện người thanh niên gầy gò kia là một đoàn người vận đồ liệm trắng nhợt. Những người này ai nấy đều áo trắng mặt đen, diện mạo dữ dằn, dưới chân không có bóng, ra là một đội quỷ binh. Người dẫn đầu sắc mặt tái xanh, đầu đội mũ tử kim, tay trái cầm đan thư thiết quyển [5] , tay phải cầm một cây bút phán quan, chắc hẳn chính là kẻ vừa lên tiếng.
[5] Đan thư thiết quyển tức là cuốn sách làm bằng sắt và có chữ bên trên viết bằng mực chu sa, trong dân gian thường được gọi là miễn tử kim bài, do vua ban cho các đại thần có công lao lớn. Trong truyện thì đây là tên của một loại vũ khí.
“Ngươi có biết kết cục của việc nghịch thiên chuyển mệnh, làm trái đạo trời không?”
Nghe thấy tiếng quát của đối phương, Quách Hồng Phi nện mạnh cán cây đinh ba xuống đất, giận dữ quát to: “Ta chỉ biết rằng nếu các ngươi muốn bước vào Đỉnh Sơn thôn thì cần bước qua xác ta trước đã!”
Gã mặt xanh nói liền ba tiếng: “Được lắm”, sau đó đột ngột vung tay, mấy chục tên quỷ bình nhất tề lao tới,vung đao thương kiếm kích đánh thẳng về phía Quách Hồng Phi. Quách Hồng Phi chằng hề né tránh, kiên quyết đứng đó chặn giữ đường vào thôn, đồng thời hơi nhún người xuống, vận hết sức lực toàn thân quét ngang cây đinh ba về phía trước. Lập tức, đầu của đám quỷ binh lao lên trước nhất bị chém lìa khỏi cổ.
Nếu đây chỉ là một đội quận bình thường, hành động này của Quách Hồng Phi hẳn nhiên đã đủ để chặnđứng đường tiến của đối phương, vậy nhưng đám quỷ binh đến từ chốn Âm tào Địa phủ kia dù có đứt đầu vẫnsống trơ trơ như thường. Một tên quỷ binh bị cụt đầu mòmẫm dưới đất tìm lại đầu của mình, sau đó lắp trở lại cổ và vung đao tiếp tục tham gia vào vòng chiến.
“Yêu nghiệt, ta xem ngươi còn có thể chống cự đến bao giờ!” Gã mặt xanh cầm đầu cất giọng âm trầm nói.
“Cút!” Quách Hồng Phi gằn giọng quát lớn. Cây đinh ba trong tay y đánh tới nơi nào, nơi đó liền tóe máu, gần như chẳng ai địch nổi.
Đám quỷ binh chết rồi sống lại, sống rồi lại chết, tuần hoàn không ngừng, liên miên không dứt. Quách Hồng Phi tuy chẳng khác nào chiến thần nhưng phải lấy một địch nhiều, lúc này trên người đã mang đầy thương tích. Tiểu Trúc không nhịn được nữa, bèn đưa hai ngón tay ra, định thi triển pháp thuật ứng cứu. Nhưng pháp thuật của nàng mới thi triển được một nửa thì đã bị Mặc Bạchđưa tay ngăn lại. Tiểu Trúc ngạc nhiên ngoảnh đầu nhìn qua, chỉ thấy sư phụ gấu trúc đang nhìn mình chăm chú sau đó khẽ lắc đầu.
Sư phụ thường ngày tuy có cẻ ham ăn ham ngủnhưng là người thấy chuyện bất bình chẳng tha, ắt chẳng bao giờ tuyệt tình như vậy, tại sao lúc này lại không cho phép nàng ra tay? Trong lòng người thiếu nữ dâng lên vô số điều nghi hoặc, hiềm một nỗi lệnh thầy khó cãi, nàng đành buông hai tay xuống, lo lắng quan sát tình hình. Nhưng chính vào lúc này, bên cạnh nàng chợt thoáng qua một cái bóng màu đen...
Bóng người đó nhanh như quỷ mị, sau nháy mắt đã tới bên cạnh Quách Hồng Phi, không phải Quy Hải Minh thì còn là ai nữa?
Ánh trăng tựa sương chiếu xuống khuôn mặt lạnh lùng tuấn tú của y, càng làm tăng thêm mấy phần nghiêm nghị. Chỉ thấy Quy Hải Minh tay cầm Bàn Long thương, ngầm vận chân khí đâm mạnh về phía trước, sau nháy mắt đầu mũi thương đã đâm thấu qua lồng ngực của một gã quỷ binh, rồi y trầm giọng quát lớn: “Minh Tiêu Chi Viêm.”
Sau khi bốn chữ ấy vang lên, lập tức có một ngọn lửa âm u màu xanh lam xuất hiện và quấn quanh cán thương, sau nháy mắt đã nuốt chửng lấy gã quỷ binh vừa bị đâm trúng. Chỉ nghe một tiếng kêu thảm thiết vang lên, gã quỷ binh vốn rụng đầu không chết kia tức thì biến thành một đống tro bụi đen thui, bị gió đêm thổi bay đi tứ tán.
Quách Hồng Phi không ngờ lại có người gia nhập vào vòng chiến như vậy, bất giác kinh ngạc đưa mắt nhìn qua phía Quy Hải Minh. Phát hiện ra ánh mắt của y, QuyHải Minh chẳng buồn nhìn lại, chỉ hờ hững nói: “Đang lúc giao đấu, há có thể phân thần?”
Trong lúc cất lời chất vấn, Quy Hải Minh vung ngang Bàn Long thương đánh về phía đối thủ, ngọn lửa U Minh ngưng tụ nơi đầu mũi thương hệt như một con rồng xanh giáng thế, để lại giữa không trung một cái bóng rồng mờ ảo. Ngọn lửa đi tới nơi nào, máu thịt ở nơi ấy liền bị đốt thành tro bụi, tiếng kêu gào thê thảm bị gió đêm lạnh lẽo mang đi, vang vọng mãi giữa chốn hoang thôn vắng vẻ.
Có Quy Hải Minh trợ trận, cục thế lập tức xoay chiều, trong sốhơn ba chục tên quỷ binh đã có quá nửa bị thiêu đốt thành tro bụi. Nhất thời chỉ thấy những ngọn lửa màu xanh cùng những tia sét màu tím không ngừng múa lượn giữa bầu trời đêm u ám. Gã mặt xanh thấy tình hình không hay thì bèn lật tay trái, tung đan thư thiết quyển lên, cất tiếng hô lớn: “Thần Hộ trận!”
Một tia sáng màu vàng rực rõ từ trên trời giáng xuống. Mười mấy gã quỷ binh còn lại vốn dĩ đều đã thương tích đầy mình, kẻ bị Bàn Long thương đâm thủng bụng, kẻ bị sấm sét đánh cho thịt da cháy khét, vậy nhưng khi luồng ánh sáng màu vàng kia giáng xuống thì lại lập tức hồi phục. Gã mặt xanh thu tay trái về, đám quỷ binh tức thì ngừng vung đao vung kiếm tấn công mà xếp hàng đứng ra phía sau hắn…
Phép thuật của đối phương khiến Quy Hải Minh bất giác hơi nhướng mày, cất giọng nghi hoặc:”Thánh Diệp thuật pháp?”
Trong cõi vũ trụ có sáu giống loài chủ yếu, lần lượt là thần, tiên, yêu, nhân, quỷ, súc, mỗi giống loài lại có những đặc điểm riêng. Trong đó, thần sống trên cõi Thượng thiên, chưởng quản các phép tắc tự nhiên, là giống loài đứng đầu vũ trụ; tiên là do bốn giống loài còn lại là yêu, nhân, quỷ, súc tu luyện đắc đạo mà thành, có được tiên pháp do thần ban cho; yêu là do linh khí trong trời đất ngưng tụ mà ra, có yêu lực cực mạnh; nhân tức là người phàm sống trong cõi hồng trần, bị thất tình lục dục kìm hãm, vậy nhưng tư chất khá cao; quỷ tức ác quỷ, là do những kẻ thân đã vong nhưng hồn chưa tan hóa thành; súc tức súc sinh, đứng vào hàng thấp nhất, xương thịt da lông đều là thứ cho loài người hưởng dụng, sinh ra là để chịu khổ.
Chiêu Thần Hộ trận mà gã mặt xanh kia vừa sử ra chính là một môn thuật pháp thuộc dòng Thánh Diệp, chỉ có các vị thần mới biết. Thật không ngờ đối thủ của Quách Hồng Phi lại là một vị thần ở cõi Thượng thiên, điều này không chỉ khiến Quy Hải Minh nghi hoặc, cảTiểu Trúc cũng chấn động vô cùng. Nàng đưa mắt nhìn gã mặt xanh kia, thấy hắn một tay cầm đan thư thiết quyển, một tay cầm bút phán quan trỏ về phía Quy Hải Minh, quát lớn: “Đúng vậy, coi như tên tiểu yêu ngươi có chút kiến thức. Nếu đã nhận ra thân phận của bản thần, sao còn không mau đưa tay chịu trói?”
Quy Hải Minh hơi nhếch khóe môi, cười lạnh nói: “Thần thì sao chứ, có gì là ghê gớm? Ta mặc kệ ngươi là thần hay tiên, dám làm hại bạn ta, đến một tên ta giết một tên, đến một đôi ta giết cả cặp.”
Nghe thấy thế khuôn mặt kẻ kia càng trở nên xanh lét, rồi hắn tung đan thư thiết quyển lên, giận dữ quát: “Băng Ngục Hàn Lam!”
Lập tức, giữa không trung xuất hiện vô vàn bông tuyết trắng xóa, dưới đất nhanh chóng phủ đầy sương lạnh, những hạt sương nhanh chóng lan đến dưới chân hai người Quy Hải Minh và Quách Hồng Phi, hóa thành băng, chừng như muốn làm cho cả hai đông cứng. Quy Hải Minh hơi nhướng đôi mày, lập tức lật tay vung mạnh Bàn Long thương ra, đồng thời cất giọng sang sảng hô lớn: “Phá!”
Sau một tiếng nổ dữ dội, băng vụn bay đi tung tóe giữa đất trời. Quy Hải Minh ưỡn lưng đứng đó, ngạo nghễ vô song.
Gã mặt xanh không kìm được giận dữ quát: “Hay cho tên yêu nghiệt nối giáo cho giặc, ngươi có biết bộmặt thật của con nghiệt súc này không?”
Dứt lời, gã mặt xanh đột ngột tung cây bút phán quan trong tay lên cao. Chỉ thấy cây bút sắt đó liên tục xoay tròn giữa không trung và vẽ ra một luồng ánh sáng màu vàng, sau đó luồng ánh sáng liền lao vọt về phía Quách Hồng Phi. Quy Hải Minh vung thương ngăn cản, nào ngờ luồng sáng đó chẳng hề mang theo lực sát thương, nhưng khi nó tới nơi thì sau lưng y bỗng xuất hiện bốn chiếc cánh mỏng màu bạc, trên khuôn mặt lạnh lùng hiện ra rất nhiều chiếc vảy sáng lấp lánh.
Quách Hồng Phiđứng bên cạnh y cũng bị luồng thần quang đó chiếu tới. Chỉ thấy tại nơi miệng vết thương vẫn còn đang chảy máu ròng ròng của Quách Hồng Phi, trong máu thịt không ngờ lại lấp lánh những tia sáng màu tím, còn bóng hình của y thì biến hóa không ngừng, cuối cùng hóa thành một con yêu thú giống như bò mà không phải bò, chính là Phi mà Quách Vũ đã từng nói đến!
Tình cảnh này khiến cả Quy Hải Minh và Tiểu Trúc đều vô cùng kinh ngạc. Có ai ngờ Quách Hồng Phi lại chính là hung thủ đã hại chết con trai của Quách Vũ là Tiểu Văn Tử chứ?
Thấy Quy Hải Minh lộ vẻ kinh ngạc, gã mặt xanh kia lập tức gằn giọng quát: “Đỉnh Sơn thôn có tổng cộng hai mươi ba người, tất cả đều vì Phi tùy tiện lên Đỉnh Sơn mà chết vì ôn dịch. Loại yêu nghiệt như vậy mà ngươi cũng muốn giúp ư?”
Nghe thấy câu này, con yêu thú Phi do Quách Hồng Phi hóa thành bất giác cúi đầu buồn bã, cất lên những tiếng kêu đầy bi thương. Quy Hải Minh đưa mắt liếc nhìn, đoạn cầm thương đi tới bên cạn