ĐOẠN KẾT
Vâng, đúng tôi là X.15. Nhưng số hiệu trong danh bạ của tôi ở sổ gốc tại Sài Gòn là A91. Khi rút khỏi thành phố, dù khẩn cấp tới đâu, rồi tới đâu, hồ sơ, sổ sách của CIA vẫn được đem đi hết.
Điều này đã được chứng minh ở chỗ các ông đã không thể nào tìm thấy hồ sở về Ba Tín tức X.25 (tên gián điệp đã đánh giá CIA quá cao. Hắn không biết rằng Võ Trần đã tìm được giấy tờ của CIA có dính líu tới Ba Tín: đó là tờ khám sức khỏe ở phòng khám bệnh Mỹ).
Vâng, thưa các ông, tôi xin nói về hồ sơ trước. Nói về hồ sơ cũng có nghĩa là nói về bản lý lịch của tôi. Vâng, đúng là nó là một bản lý lịch giả. Tôi đã không hề làm giao liên cho Quân giải phóng hồi nhỏ. Tôi cũng chưa bao giờ tham gia hoạt động thanh niên, càng không bao giờ làm bí thơ thanh niên liên xã… Nói tóm lại, tôi đã tự sáng tác cho mình một bản lý lịch khá đẹp, khá hợp “gu” các ông: nào là có khổ, có thù, nào là bần cố… Chúng tôi biết các ông vốn rất thích những cái đó.
Bản lý lịch này được trao cho một cán bộ có tín nhiệm về địa phương tôi xác minh năm 1976, trước khi phong quân hàm cho tôi, hơn thế nữa còn để chuẩn bị kết nạp tôi vào Đảng. Tôi được phép đưa dẫn vị cán bộ này về quê cũ. Cũng phải nói vị cán bộ này rất thực thà, trung thành, tốt bụng, và cần mẫn nữa, nhưng đồng thời cũng hết sức đơn giản. Vị này rất quý tôi. Tới Sài Gòn tôi dùng một thủ pháp nhỏ đủ để làm cho vị đó cảm sốt phải nằm lại, và cũng không khó khăn gì trong việc tác động tâm lý, tình cảm của vị đó để dễ dãi và hoàn toàn tin cậy, cũng như sẵn sàng “linh động” để cho tôi tự đem bản lý lịch về quê xin xác minh. Mặt khác chắc các ông cũng rõ: mới giải phóng, cán bộ ở các địa phương hầu hết còn quá trẻ. Họ không biết gì nhiều về mọi việc, mọi người trong quá khứ. Những cán bộ lớn tuổi đã chết hầu hết trong chiến tranh. Tôi cũng xin nói thêm nữa: các cán bộ ở xã khi ấy phần lớn lại là anh em bà con với tôi. Bởi vậy bản lý lịch của tôi đã được “xác minh” một cách hoàn toàn dễ dàng là một điều rất dễ hiểu.
Thưa các ông,
Nhưng thôi, tôi xin phép khỏi phải nói thêm về lịch sử của đời tôi nữa, vì tới nay các ông đã rõ cả, và tôi đã thú nhận bản lý lịch cũ là hoàn toàn giả.
Bây giờ tôi xin khai từ khi Mỹ tuyển mộ tôi cho tới bây giờ. Đó là năm 1966, khi Mỹ đem quân ồ ạt vào miền Nam. Lúc đó tôi đã thôi học được hai năm, đang hoạt động cho Trung tâm diệt trừ sốt rét của chính quyền ngụy. Mà thực chất cái Trung tâm ấy chỉ là một cơ quan tình báo trá hình do Trần Tử Oai cầm đầu. Tuy nhiên khi đó tôi chưa hề biết rõ như vậy. Năm ấy tôi mới chỉ là một thanh niên hăng hái, có nhiều tham vọng về chính trị, nhưng chưa có dịp, chưa có cách tiến thân ngoài việc tích cực làm việc cho Trung tâm nọ với cương vị một đội trưởng. Tôi được cấp một xe hơi công tác, với một đoàn bác sĩ, y tá, hộ lý khá đông. Trong khi mạo hiểm, sục xạo vào các vùng rừng núi dưới lá cờ chữ thập đỏ, chúng tôi thường gặp du kích hoặc Quân Giải phóng. Nhưng thấy tụi tôi hoạt động có tính xã hội, nhân đạo nên bao giờ họ cũng tha hoặc đuổi chúng tôi quay ra, chứ không bao giờ tấn công hoặc bắt bớ. Sự nhân đạo và rộng lượng này nhiều khi cũng đồng nghĩa với mất cảnh giác. Vì trong tụi tôi có những nhân viên chỉ điểm, tình báo của Trung tâm, mà mãi về sau này tôi mới rõ. Tụi này đã ghi chép, đã chụp ảnh được nhiều địa điểm kho tàng hoặc nơi ém quân của cách mạng. Do đó bom đạn đã trút xuống phần nhiều trúng mục tiêu. Và nhiều cuộc càn quét thường đã không uổng công…
Tôi trở lại chuyện Mỹ. Khi Mỹ vào Việt Nam cũng có nghĩa là CIA vào thêm mạnh mẽ. Tôi nói “vào thêm” là vì CIA Mỹ đã vào từ khi có Diệm, thậm chí trước cả Diệm, nhưng CIA khi đó còn bé nhỏ. Nay CIA đã trở thành một cái gì có thể coi như cả một “quân chủng” Mỹ khi chúng ồ ạt vào Nam Việt Nam.
Vì vậy đã có những cuộc tuyển mộ thêm nhân viên người Việt. Rất khác ngụy, Mỹ tuyển mộ rất chặt chẽ, kín đáo. Tiêu chuẩn rất cao, không hề ẩu. Ngụy thường chỉ chú trọng tới lũ bất mãn, bọn hồi chính. Nhưng Mỹ lại coi lũ này là lũ khốn kiếp, bỏ đi. Đã phản lại cách mạng, lũ ấy cũng dễ dàng phản lại Mỹ như không. Ngụy còn chú trọng tới lũ có nợ máu với cách mạng, như con địa chủ bị đấu tố hoặc bị giết, con tư sản bị tước đoạt tài sản hoặc bị tù tội… Mỹ không coi trọng lắm những chuyện này, mặc dầu cũng thừa nhận đấy là một yếu tố có lợi: Mỹ thích những loại người khác: trẻ tuổi, có kiến thức, có sức khỏe, năng lực, tháo vát, can trường, gan góc và nhất là có nhiều tham vọng…
Chính vì vậy, tôi đã “lọt vào mắt xanh” của một nhân viên CIA hoạt động ngầm trong Trung tâm dưới cái mũ cố vấn. Tôi xin phép khỏi phải nói dài về những gì mà tên Mỹ ấy đã gặp gỡ, đã tuyên truyền tôi. Tôi chỉ xin khai gọn: Cuối 1966, tôi đã chính thức được CIA tuyển mộ sau một loạt những khảo sát qua máy móc điện tử về tâm lý, về thần kinh, về trí nhớ. Và cũng qua một loạt việc đột xuất để thử thách, xem xét, đánh giá lại năng lực làm việc.
1967, tôi được CIA cho bí mật sang Mỹ học về tình báo gián điệp một cách cơ bản. Tôi đi vào tháng 10 năm đó trên một chiếc máy bay riêng của CIA, và chỉ có mình tôi là người Việt trong chuyến ấy.
Sau hơn một năm được các chuyên gia của Mỹ trực tiếp huấn luyện về nghệ thuật tình báo, về tâm lý học, về triết học. Lẽ cố nhiên là triết học phản động, chống Cộng, rồi các mặt kỹ thuật như điện đài, mật mã, cuối cùng là các môn bắn súng, võ thuật, đặt mìn, đầu độc và tuyên truyền, tung tin giả, v.v… Tôi được trở về nước cuối năm 1968. Khi ấy ở nước nhà đã có biến cố Mậu Thân, và Mỹ đã nhìn thấy được: sẽ không thể thắng bằng chiến tranh, phải có giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam và Đông Dương. Do đó chiến tranh gián điệp sẽ phải đẩy lên hàng quốc sách. Tôi về nước đúng lúc ấy.
Tôi tạm thời lại tiếp tục hoạt động cho Trung tâm chống sốt rét. Tụi tình báo ngụy chỉ được biết rằng hơn một năm qua tôi “bị bệnh gan” phải qua Mỹ chữa. Tuy nhiên, chúng cũng ngờ ngợ tôi đã làm việc cho CIA, ngờ ngợ nhưng không một đứa nào dám tò mò. Bọn chúng rất kiềng, rất sợ CIA. Tôi được người của Pôn-ga bảo cứ tiếp tục làm việc cho Trung tâm chống sốt rét. Khi nào cần sẽ có lệnh. Ông P (tức PONGA) rất không muốn dùng tôi vào việc vặt. Ông tin là tôi sẽ thích hợp với những trách vụ có tầm chiến lược. Qua năm 1970, tôi được lệnh CIA tới chiếm lãnh địa bàn ở Z và chuẩn bị “vào cuộc”. Thế là tôi xin chuyển lên làm công vụ chống sốt rét ở đó, đồng thời mở rộng công tác sang các mặt xã hội để xây dựng dần một vốn chính trị trong quần chúng. Tôi “hăng hái” làm đủ các việc trong các phong trào như cứu đói, chống nạn mù chữ… Tôi hoạt động rất mạnh trong giới tuổi trẻ lúc đó đang sôi nổi dấn thân vì đất nước, nhằm để thu hút và nắm lấy họ.
Do đó, tôi lên Z được ít lâu, thì hình ảnh về một thanh niên xông pha, lăn lộn, tận tụy và có năng lực – khi đã tổ chức hoặc làm gì thì đều nổi đình đám – đã dần dần nổi rõ. Có người còn coi tôi như một thứ thủ lĩnh thanh niên. Đúng lúc ấy, người của Pôn-ga cho tôi biết ở Z cũng đã có một người của CIA, và cho tôi xem ảnh. Đó là X.25, tức Ba Tín đã lọt được trở về hàng ngũ cách mạng. Pôn-ga có ý định dùng Ba Tín để “đánh” cả tôi vào các lực lượng vũ trang của cách mạng. Tuy nhiên CIA rất cao tay và thận trọng. Không cho Ba Tín trực tiếp biết tôi. Họ dùng một nhân viên khác cũng do CIA mới tạm tuyển đó là Vũ Nhâm người quen biết Ba Tín từ Côn Đảo. Vũ Nhâm được trao nhiệm vụ giới thiệu tôi với Ba Tín tức X.25, dưới cái mũ “cán bộ thanh niên cách mạng bị mất đất, lưu vong”. CIA làm như vậy, chắc các ông đã rõ: đề phòng khi X.25 bị lộ, bị sa lưới nếu có khai báo, thì cũng không biết tôi là CIA mà khai ra. Quá lắm thì cũng chỉ khai là đã tổ chức được tôi, nhưng hoàn toàn là để làm việc cho cách mạng, làm bình phong cho X.25. Vậy tôi hoàn toàn là “cán bộ cách mạng thứ thiệt”.
Đây là tôi khai báo về thực chất, về cái lõi, chứ ngay cả Vũ Nhâm thật ra cũng không biết tôi là ai. Và CIA cũng chẳng giao nhiệm vụ công khai cho Vũ Nhâm như vậy. CIA chỉ lệnh cho Vũ Nhâm là: tới Z hoạt động công khai một thời gian và chờ lệnh tiếp, Vũ Nhâm đã thực hiện đúng như vậy. Anh ta tới Z giả làm người làm thuê cho một hiệu thuốc, đồng thời dạy võ. Tôi bèn sắm vai người ham chuộng võ thuật, tới xin học. Tôi đã mau chóng chiếm được lòng tin yêu của Vũ Nhâm. Trong khi đó X.25 được bên cách mạng hối thúc phải xây dựng cơ sở… Câu chuyện đã diễn ra như thế nào chắc X.25 đã khai, và các ông đã biết cả. Nói tóm lại, cả Ba Tín, cả Vũ Nhâm đều không hề biết tôi cũng là người của CIA mà đều tin rằng tôi chỉ là một cán bộ thanh niên hăng hái lưu vong nên tuyển dụng cho cách mạng, làm “bình phong” che giấu mình. Họ cũng không biết Pôn-ga đã quyết định giao quyền cho tôi làm “sếp” chỉ huy cả hai nhân viên này. Thật vậy, bên ngoài tôi là học trò, là tổ viên, là cấp dưới, là em út của họ, nhưng bên trong tôi lại là chỉ huy theo quyết định của Pôn-ga, mà họ không hề biết. Nói như vậy cũng có nghĩa: cái chức chỉ huy của tôi cũng như cái lưới gián điệp CIA ở Z rất khác thường, nó là kiểu mới. Chỉ huy mà giấu mặt. Ra lệnh phải bằng cách “đạo diễn” khéo léo. Có lưới mà lại như là không lưới. Kiểu tổ chức mới này xem ra phức tạp nhưng lại rất tốt, rất kiên cố, hơn các kiểu tổ chức cũ nhiều. Đó là nhận xét của Pôn-ga.
Tôi xin khai tiếp tục: sau khi thấy Vũ Nhâm đã hoàn tất nhiệm vụ mà chính y không rõ là giới thiệu tôi với Ba Tín để rồi Ba Tín lại giới thiệu tôi với cách mạng thì tôi được lệnh CIA phải “xóa” ngay Vũ Nhâm. Tôi bèn tìm cách rung dọa. Tôi bảo cho Nhâm biết là cách mạng đang nghi ông là CIA. Khi đó tôi đã được phân khu rất tin cậy, được chính thức chấp nhận làm việc với phân khu với tư cách là cán bộ hoạt động hợp pháp. Còn Vũ Nhâm vẫn chưa. Vì vậy khi tôi “rỉ tai” như vậy, Nhâm tin ngay. Ông ta lo lắng thực sự. Tôi lại rung dọa tiếp bằng cách khác. Tôi nói vu vơ CIA nó dữ lắm. Ai phản nó diệt liền. Những ai vì sơ hở để lộ, nó cũng diệt để khỏi bị bắt và khai báo… Thế là ông ta quyết định trở về quê, thôi hẳn mọi hoạt động. Tôi khuyến khích ông trong quyết định ấy. Vũ Nhâm về quê được ít lâu, tôi đã gửi qua bưu điện, giấu tên, giấu địa chỉ, một thứ thuốc đau dạ dày của Pháp mà tôi biết Vũ Nhâm rất chuộng. Thực ra đó là một liều thuốc độc cực mạnh, Vũ Nhâm đã chết. Tôi cũng phải thành thực và xin phép được bày tỏ sự khâm phục các ông về kết luận: Vũ Nhâm đã bị đầu độc.
Sau khi xóa được Vũ Nhâm, tôi yên tâm “làm việc cách mạng” “dưới quyền” Ba Tín. Tôi luôn cung cấp cho ông ta những tin tức về Mỹ - ngụy. Toàn là tin thật, không hề bịa đặt, nhưng tất nhiên toàn là tin cũ hoặc tin vặt vãnh vô giá trị. Nhưng Ba Tín lại rất mừng vì có cái để mang vào mật khu báo cáo, che mắt lãnh đạo. Ba Tín thường rất nghèo tin “địch”. Mà các vị lãnh đạo cũng rất cả tin. Chỉ một cái bản đồ Z đơn giản như của học sinh, gửi ra khu, các vị cũng đã khoái lắm.
Như vậy, tóm lại hai chúng tôi tiếp tục làm việc với nhau và chỉ có tôi biết X.25, còn X.25 vẫn không hề biết tôi. Tôi còn biết cả quán Tuổi Mộng làm cơ sở giao thông cho X.25. Trong khi đó, quán ấy cũng không hề được biết tôi.
Tóm lại, nhiệm vụ của X.25 là tiếp tục cung cấp tin tức quân sự. Nhiệm vụ của tôi là theo dõi X.25 và chỉ huy nó bằng cách gợi ý khéo léo. Nhưng cái chính vẫn là tạo cơ hội, nắm mọi cơ hội để đi sâu và leo cao hơn nữa. Phương thúc liên lạc của X.25 với Trung tâm ở Sài Gòn lúc đầu là hộp thư mật ở nghĩa trang, sau là cơ sở quán Tuổi Mộng. Còn phương thức liên lạc của tôi là bí mật và trực tiếp với người của Pôn-ga tại Sài Gòn. Nhưng cực kỳ hạn chế, một năm chỉ một hai lần. Vì như đã khai báo, tôi là con bài “ủ” để dùng về lâu dài không sử dụng vặt trước mắt như X.25. Tất nhiên khi có những chỉ thị nhiệm vụ đột xuất, người của Pôn-ga lại lên quán Tuổi Mộng và liên lạc với Ba Tín, bắt Tín phải làm một việc gì đó khác thường có tính quy ước. Ví dụ cho Ba Tín một khăn mặt đỏ mới, bảo hàng ngày phải phơi ở cửa sổ, hoặc có khi cho một lồng chim hồng tước dặn phải treo ở hiên, không được cho ai, hoặc bán đi. Tôi tới chơi nhà X.25 chỉ cần nom thấy tín hiệu ấy là hiểu “sếp” muốn gọi tôi về Trung tâm báo cáo, hoặc nhận lệnh đột xuất. Thế là tôi tìm cách về Sài Gòn. Chính cách liên lạc này đã được áp dụng gần đây. Hải Cẩu đã giao tín vật cho X.25: X.25 phải làm theo lời “bác Phan” dặn (bác Phan là mật danh chung để chỉ CIA chứ không riêng gì Giêm người trực tiếp với X.25 hoặc Pôn-ga). Và tôi, tự tôi sẽ ra lệnh cho X.25.
Sau ngày giải phóng, tôi đã kịp thời nắm được một cơ hội rất tốt để nâng cao thêm tín nhiệm của mình với cách mạng. Đó là việc truy tìm bọn ác ôn lẩn trốn không chịu cải tạo. Do hoạt động hợp pháp lâu năm, hơn thế nữa là nhân viên CIA tôi đã nhẵn mặt tụi nó. Vì thế tôi đã giúp công an tỉnh truy tìm bắt được rất nhiều tên, trong đó có cả tên trưởng ty cảnh sát như các ông đã biết quá rõ. Tụi này toàn là của Thiệu. Mỹ không biết. Cho nên càng “thí” được bọn này bao nhiêu, thì chỉ càng có lợi cho tôi bấy nhiêu. Quả đúng thế, qua vụ này uy tín của tôi lên trông thấy. Tôi được mau lẹ phong quân hàm như đã khai ở trên…
Thêm nữa, cũng do uy tín đang lên tôi đã vận động cho Ba Tín được làm đoàn trưởng 123 cũng không vất vả khó khăn gì lắm. Tôi nói gì, các vị đều rất dễ nghe. Tất nhiên, tôi không dại gì lộ mặt trong việc này. Tôi gợi ý cho Ba Tín xin lập Đoàn 123. Sau đó, tôi ở “hậu trường” vận động ủng hộ.
Thế là tôi đã đạt được một số mục tiêu mau lẹ một cách không ngờ. Tôi bèn tính tới chuyện phải leo lên một vị trí cao hơn nữa. Lúc đó gặp dịp ông tham mưu phó Bảy Tôn chuẩn bị nghỉ hưu. Người thay thế rất có nhiều triển vọng là Huỳnh Bá, một thiếu tá có nhiều công tích cũ. Nhưng Huỳnh Bá có nhược điểm từ sau giải phóng ăn chơi xả láng, có nhiều tai tiếng. Vì thế, tổ chức còn đang chần chừ.
Tôi nhận định: đây là cơ hội để có thể tranh chiếm được cái ghế khá quan trọng này. Tôi hiểu tôi có nhiều nhược điểm so với Huỳnh Bá, chiến tích cũ không lừng lẫy, không nhiều bằng. Cấp bậc lại mới chỉ là đại úy. Tuy nhiên tôi cũng có những thế mạnh khác: Tôi trẻ hơn, mà lực lượng trẻ đang được bốc lên đến mây xanh, nhiều khi bốc mà không cần tính toán, xem xét kỹ, cứ thấy trẻ nhanh nhẹn một chút là đề bạt lên ầm ầm – đề bạt để được tiếng là mới, là thức thời. Tôi lại quen biết nhiều nơi cửa quyền hơn Huỳnh Bá… Tôi xin phép lại dừng ở đây để nói thêm một chút: dịp này tôi có quen biết Mỹ Dung, con một vị có vị trí quan trọng trong tỉnh. Tôi biết Mỹ Dung là cô gái hết sức bê bối, đã hai lần nạo thai. Nhưng cô lại rất mê tôi. Ông bố bà mẹ cô cũng mến tôi và rất muốn “ấn” cô gái hư hỏng này cho tôi, vì biết tôi đang muốn bỏ vợ. Tôi biết hết. Nhưng tôi vẫn cứ làm ra vẻ có thể “sẵn sàng”. Vì tôi đang cần có thêm một ô dù quan trọng, tôi cũng muốn có thứ gái để chơi giải trí nữa.
Trở lại chuyện tranh cử ngầm chức tham mưu phó. Tôi đã sử dụng Mỹ Dung một cách có hiệu quả. Bố cô tuy không ở trong quân đội, nhưng có nhiều quan hệ công việc và có uy tín với giới quân sự, từ quân khu cho tới tỉnh. Tuy vậy, muốn cho chắc chắn hơn, tôi đã nắm lấy cơ hội tỉnh đang đẩy mạnh việc tiễu trừ các cơ sở của cái “Mặt trận cứu quốc phò dân”. Tụi này tuy chẳng có thể làm gì lớn, nhưng cũng phải thừa nhận là chúng đã làm cho chính quyền mới rất khó chịu.
Tôi đã tính toán: cần phải hy sinh một bộ phận quan trọng của bọn cầm đầu để tạo một chiến công thật nổi bật, mới có thể cầm chắc chức tham mưu phó trong tay. Thế là, phối hợp với công an tỉnh, tôi đã hiến kế giăng bẫy…
Kết quả: sau chiến thắng nổi bật đó, đúng như sự chờ đợi, tín nhiệm của tôi càng lên cao hơn. Tôi tưởng rằng chức tham mưu phó đã nằm trong tay tôi rồi. Nhưng Huỳnh Bá cũng có ít nhiều thế lực, chủ yếu là ở trên Quân khu và hình như ở cả trên Trung ương.
Tôi thấy lại cần phải làm một cái gì đó nữa. Thì cũng vừa may có vụ kho vũ khí do Ngô Đạt phụ trách bị cháy nổ. Tới hôm nay tôi xin thành thực khai: đây là vụ cháy nổ thật, do tụi nó vô trách nhiệm mà thôi. Không có địch gì hết. Nhưng tôi đã tung tin là có thể có địch và tìm cách kéo Huỳnh Bá vào vụ này. Cũng rất may cho tôi khi thẩm vấn, vợ Ngô Đạt khai ra chuyện Ngô Đạt có nhậu với Huỳnh Bá chiều hôm trước. Thế là tôi túm ngay lấy chi tiết này, xoáy vào khai thác mạnh. Các vị lãnh đạo nghe tôi, bắt đầu nghi ngờ Huỳnh Bá và bổ sung tôi vào ban chỉ đạo điều tra vụ án này.
Đấy là dịp ông Mẫn ở Hà Nội vào, nói là chuyển hẳn, và viết sử. Thoạt đầu tôi tin như vậy. Nhưng về sau, sự có mặt của ông Mẫn đã luôn luôn ám ảnh tôi. Tuy vậy, tôi xin được báo cáo tiếp về vụ Huỳnh Bá – Ngô Đạt đã. Tôi đã cho người theo dõi Huỳnh Bá, theo dõi Bá một cách lộ liễu, để cho mọi người biết, do đó mà uy tín của Bá càng bị tổn thương. Sau đó tôi cho bắt một nhân viên Mặt trận – bắt tụi này dễ ợt. Tôi muốn bắt lúc nào thì bắt, cái lũ tiểu yêu, tay sai này! Và tôi đã mớm cung, bắt nó phải khai báo rằng: có thấy Huỳnh Bá trước đây thường liên lạc với các thủ lĩnh của nó. Đây là một đòn chết tươi mà tôi cần phải đánh tiếp vào Huỳnh Bá. Chắc các ông cũng quá hiểu sự vu buộc về chính trị để thanh toán nhau, đó thường là đòn độc địa nhất…
Khi tên nhân viên Mặt trận khai láo, được ghi biên bản, ký tên, đồng thời thu dây ghi âm xong, tôi đã ngầm tạo dựng nên một vủ lẻn trốn khỏi nhà giam, mục đích để thủ tiêu tên nhân viên ấy, xóa hẳn dấu vết của tôi, phòng sau này nó hối lại, phản cung.
Tôi quên, xin bổ sung thêm về cái chết của Ngô Đạt trước đó một chút. Thưa các ông, Ngô Đạt tự sát thật, vì anh ta vốn nhút nhát, quá sợ, thêm nữa cũng quá thất vọng trước sự mù mờ thiếu anh minh của lãnh đạo, đồng thời chán nản, nghi ngờ đồng bọn ghen tị đã xúm vào vu cáo anh. Chính vì vậy Ngô Đạt đã tự tìm lấy cái chết.
Tôi xin khai tiếp: từ đó Huỳnh Bá coi như hoàn toàn bị đánh gục., Anh ta bỏ trốn. Tôi cho rằng anh ta vượt biển nhiều hơn là tự sát. Tôi cảm thấy mình không còn đối thủ nữa. Các vị lãnh đạo ở trên đã hứa: nhân dịp 22 tháng 12 sắp tới sẽ chính thức trao cho tôi nhiệm vụ tham mưu phó. Người ủng hộ tôi rất nhiều, trong đó có cả ông Năm Cường – con người tốt bụng.
Vụ Huỳnh Bá – Ngô Đạt là như vậy, tôi đã khai báo hết. Bây giờ tôi lại ngược thời gian trở lại một chút để khai về các chuyện khác.
Trong khi tôi đang tập trung “làm” cái vụ Ngô Đạt – Huỳnh Bá thì một hôm sang chơi cờ bên ông Năm, tình cờ tôi được nghe lái xe Bảy Hựu nhắc tới Út Bơ tức Nguyên Nguyên. Tôi giật mình. Sau vụ tai nạn giao thông bi thảm đầu 1977, tôi cứ yên chí là Út Bơ cũng chết nốt, sau khi được đưa về Sài Gòn. Không ngờ cô bé ấy còn sống. Nó còn sống, có nguy cơ X.25 bị lộ trong một ngày nào đấy. Mà X.25 lộ có khả năng sẽ đến lượt tôi. Nghĩ vậy tôi cứ hối mãi là đã không quan tâm đầy đủ tới Út Bơ.
Cho phép tôi được nói rõ thêm: bữa đó Bảy Hựu do tình cờ, vô mục đích mà tự nhiên nhắc tới Út Bơ. Hắn kể cả việc ông Mẫn thích thú muốn đi tìm Út Bơ. Theo một phản xạ, tôi bắt đầu hoài nghi về sự xuất hiện của ông Mẫn ở thành phố này. Đề phòng mọi bất trắc, tôi cho Chín Hùng ra ngay Sài Gòn kiếm Út Bơ, tìm cách răn đe trước, không cho cô bé này tiết lộ điều gì về quá khứ với bất cứ ai, nhất là trong những trường hợp bị bám sát hoặc khai thác. Mặt khác, tôi cũng cho bí mật đột nhập vào nơi làm việc của nhóm ông Mẫn để thử coi đây có đúng là một tổ viết sử? Nhưng việc đột nhập đã không thành, nên tôi vẫn chưa có thể kết luận được gì về ông Mẫn. Dạ, vụ đột nhập ấy đúng là do Chín Hùng. Còn vụ xe tải là hoàn toàn không có. Chắc là một tên lái xe say rượu nào đó thôi.
Rồi sau đó tôi bận tâm nhiều vào việc quật đổ Huỳnh Bá nhằm chiếm cho được chức tham mưu phó. Một hôm nhận được giấy của Ba Tín mời về dự lễ mừng công của 123. Đã từ lâu tôi theo dõi, thấy Tín làm ăn được nhưng cũng có rất nhiều sơ hở, thậm chí có những sơ xuất hết sức ngu dại và nguy hiểm như hay để xảy chuyện với bên công an. Gần đây tôi đã khéo léo, bí mật gián tiếp nhắc nhở Tín sau vụ bao vây đồn công an. Tín có vẻ sợ rồi nên chán nản. Nay thấy Tín mở hội mừng công, tôi cho là Tín sau khi dao động đã lấy lại được tinh thần để hoạt động. Nhưng khi tới 123 qua tín hiệu là chiếc đồng hồ đeo tay là vật mà tôi đã được quy ước rất cẩn thận với CIA hồi xuân 1975, tôi mới hiểu Ba Tín mở hội mừng công là để báo cho tôi (tất nhiên Tín vẫn hoàn toàn không biết tôi) đã có liên lạc của thượng cấp từ hải ngoại về, và có cả tài liệu, mệnh lệnh kèm theo. Nhận được tín hiệu, nhưng tôi hoàn toàn cảnh giác, đề phòng mọi cạm bẫy, nên Tín vẫn không thể biết tôi mà người của các ông cũng chịu nốt.
Sau đó, tôi viết mệnh lệnh trên bưu ảnh gửi cho Tín. Vẫn luôn luôn đề phòng, tôi cho Chín Hùng hóa trang đi kiểm tra lại nghĩa trang. Xem có bị gài mìn, phục kích. Nhưng không thấy có lực lượng nào hết – xin thành thực khâm phục tài ém quân của các ông – Tuy vậy tôi vẫn thận trọng, hóa trang đi kiểm tra lại một lượt, rồi bí mật gài một trái mìn hẹn giờ ở gần đầu cầu. Mục đích để gây tiếng nổ thu hút sự chú ý của mọi người, kể cả lực lượng phục kích của các ông nếu có mà chúng tôi chưa phát hiện ra. Tôi biết trước: khi có tiếng nổ chắc chắn mọi người sẽ phải đổ ra cây cầu. Lúc đó người của chúng tôi lọt vào nghĩa trang không còn gì khó khăn nữa. Tóm lại việc này tôi lại thực hiện được hoàn toàn yên ổn, vô sự.
Lấy được bản khóa mật mã mới, tôi đọc được chỉ thị của thượng cấp là: Bắt đầu từ nay sẽ liên tục có lực lượng từ hải ngoại trở về. Tôi phải cố gắng xây dựng càng nhanh càng tốt nhưng “căn cứ lỏng”, nếu đã có thì phải củng cố và nhân thêm lên. Lập được các chiến khu nữa thì càng tốt.
Thưa các ông! Tôi đã bắt đầu gửi báo cáo vắn tắt bằng mật mã, qua điện đài. Tôi cũng đã lấy cớ xuống các xã, để xem xét lại các cơ sở của tôi… Nhưng cũng thưa các ông, tôi vẫn luôn luôn bị ám ảnh bởi sự xuất hiện của ông Mẫn ở đây. Tất nhiên tôi vẫn chưa hề có một chút tin tức hoặc tài liệu gì để có thể nghi ngờ ông ấy, nhưng đúng là tôi vẫn đề phòng. Sau khi nhận được tín hiệu từ Ba Tín, tôi cho rằng vai trò Ba Tín như vậy không còn cần thiết nữa, mặt khác không loại trừ khả năng Ba Tín đã bị lộ, và hắn đang sắm vai tuồng một “con mồi”. Tôi đã đi tới quyết định thủ tiêu Tín. Nếu thủ tiêu được thì trừ được một hậu họa, nhưng ngược lại nếu Ba Tín thoát thì cũng có thể hiểu được; Tín đã và đang được bảo vệ. Như vậy có thể xác định Tín đúng là “con mồi” hay không, và cũng có thể nghĩ tới vai tuồng của ông Mẫn trong việc này.
Ba Tín đã không chết. Sự nghi ngờ của tôi về ông Mẫn, như đã thưa, hiển nhiên tăng lên. Tôi phái ngay Chín Hùng bí mật tìm về nhà Vũ Nhâm để xem có sự lần mối nào lên tới đó không? Vì, như các ông hẳn đã rõ Ba Tín với Vũ Nhâm có rất nhiều mối quan hệ với nhau. Vậy tôi tin rằng nếu đã “sờ” được Ba Tín chắc chắn các ông cũng phải lần tới Vũ Nhâm.
Nhưng cũng lạ, chị Nga, vợ Vũ Nhâm nói không thấy ai tới dò hỏi cả. Hàng xóm cũng nói đúng như thế. Tôi rất phân vân nếu các ông có lên đó, mà vợ Vũ Nhâm cùng hàng xóm vẫn giữ kín được như vậy thì quả là các ông cũng không phải tay vừa.
Tôi tiếp tục tìm hiểu qua Thùy Dương. Nhưng cũng vẫn không thấy có tín hiệu gì khác lạ về ông Mẫn. Tôi cũng phải thú nhận một nhược điểm cố hữu của tôi là đứng trước những người đẹp thường không mấy khi được hoàn toàn sáng suốt. Và về Thùy Dương, tôi xin phép sẽ được nói kỹ hơn ở phần sau. Bây giờ, xin khai tiếp về những việc mà tôi đã triển khai để tìm hiểu về ông Mẫn cùng nhóm của ông. Tôi đã mời ông về, để nói chuyện xin đất giùm ông. Tôi nói có thể xin được nhưng với điều kiện ông phải đưa ngay cả gia đình vô, để có hộ khẩu tại chỗ. Thử xem ông có thiệt xin vào đây làm ăn lâu dài không? Ông Mẫn không những mừng rỡ, cảm ơn tôi, còn xé sổ tay viết liền một bức điện nhờ tôi gửi. Thưa các ông, tôi lại phân vân: mình có đa nghi quá chăng? Ba Tín thoát chết có khi chỉ vì sự tinh khôn của ông ta?
Cho tới cái vụ “vận chuyển vũ khí” lớn của các ông thì tôi lại đề phòng – đề phòng một cái bẫy. Nhưng rồi bị hấp dẫn quá, tôi đã đột nhập nhà ông Năm để chụp ảnh trộm các tài liệu mật. Tôi có kỹ thuật nên phát hiện được có dấu. Nhưng tôi cũng có đủ trình độ để chụp ảnh xong rồi lại lập lại dấu y như cũ. Có lẽ vì vậy các ông không hề thấy mất dấu. Nhưng sau khi xem kỹ lại tài liệu tôi có cảm tưởng đây là tài liệu giả! Tôi hiểu: nếu là tài liệu giả thì cũng có nghĩa là tôi đã mắc bẫy, là tôi đã bị lộ. Ý nghĩ ấy đang ám ảnh tôi thì Chín Hùng lại về báo cáo: phát hiện thấy xe mã thám, và cho tôi biết một tin có thể dựng tóc gáy nữa: tình cờ trong một lúc quá say rượu, lái xe Bảy Hựu đã thốt ra một chuyện mà nó đã bị cấm không được lộ ra với bất cứ ai! Đó là cách đây ít lâu Bảy Hựu đã bị công an bắt trong một ngõ hẻm khi hắn đang bán xăng. Bị đưa về một nơi riêng, chứ không phải đồn, hắn bị chất vấn đủ điều linh tinh, nhiều chuyện xem ra chẳng dính líu gì tới xăng nhớt hết.
Tôi không khỏi giật mình. Thế là ráp nối lại tất cả mọi chi tiết đã từng làm tôi phân vân, đã từng ám ảnh tôi từ lâu… Cuối cùng, tôi đã có thể tạm thời nhận định: có rất nhiều khả năng tôi đã bị bám sát, và bị lộ. Nhận định này sớm đưa tôi tới một quyết định: phải rút chạy.
Bây giờ tôi xin phép trở lại chuyện Thùy Dương. Cho tới hôm nay tôi vẫn còn căm giận cô không sao nói hết. Tôi không giấu giếm: tôi đã yêu cô một cách say mê. Thật vậy, không thể nào ngờ một người đã trải qua chẳng ít đàn bà, hơn thế nữa lại còn làm gián điệp, phải luôn luôn giữ gìn như tôi mà lại còn có thể si mê một cô gái đến thế. Thật vậy, tôi không hiểu cả chính tôi nữa. Vì cô đẹp chăng? Có lẽ không hoàn toàn phải như thế. Tôi đã từng quen biết không ít đàn bà đẹp. Vì cô tốt bụng ư? Cũng không phải. Thiếu gì cô gái tốt bụng? Vậy là do đâu nhỉ? Tôi vẫn không thể hiểu. Tôi chỉ biết là quả thật tôi đã rất yêu cô, yêu đến mê muội, dam đưa cô về cả căn nhà riêng mà ở đó có điện đài cất giấu và hoạt động. Thậm chí tới lúc phải quyết định bỏ chạy gấp, tôi vẫn muốn kéo cả cô chạy theo. Rủ không được thì sẽ bắt buộc. Mê muội tới mức ở liền bên, cô mang cái gì trên mái tóc tôi cũng không để ý, không biết nữa…
Thế đấy, thưa các ông, thì ra tôi đã thua trí cả cô gái mà tôi hằng cho là thơ ngây, hồn nhiên này. Tôi căm giận và tôi cay đắng.
Còn về việc tôi phải quyết định cấp tốc chạy, chính là do một người mà tôi không thể ngờ: đó là Mỹ Dung. Cô thực sự yêu tôi. Nói cho đúng hơn: hết sức say mê tôi, cho nên cô muốn cứu tôi. Cô đã báo cho tôi biết: ông bố cô vừa được biết một tin cực mật là tôi bị theo dõi từ lâu, nay đã có quyết định bắt tôi. Và như các ông đã biết, tôi không còn con đường nào khác là phải rút chạy cho nhanh…
* * *
Sáng hôm ấy trời đẹp, tổ “viết sử” đã tới nghĩa trang viếng mộ Thùy Dương. Ba Mẫn lặng lẽ đặt lên đó bó hoa và thắp mấy nén nhang. Họ ngồi lặng im rất lâu trước mộ người đã khuất, nuối tiếc, đau thương.
Tuy câu chuyện bữa nay họ nói với nhau đều xoay quanh người con gái vừa mất đó. Sự ra đi của cô đã tạo điều kiện để công việc của họ được hoàn thành một cách nhanh chóng hơn. Mặc dù X.15 đã khai khá đầy đủ, riêng còn những điều bí mật về Thùy Dương hắn làm sao hiểu được. Hắn cũng không thể biết được là thiếu tá Huỳnh Bá cũng sắp trở về. Ông ấy không vượt biển, không tự sát… Ông chỉ ra Hà Nội tìm hồ sơ gốc để minh oan. Rồi cả cô Nguyên Nguyên nữa, cô ta cũng đã trở về thành phố thơ mộng này để sống giữa tình thương của bà con cô bác. Và như vậy chắc chắn lần đối thoại tiếp giữa Ba Mẫn và X.15 sẽ rất hấp dẫn và lý thú. Tên gián điệp nằm vùng già dặn này sẽ còn nhận được những bài học cay đắng và nhục nhã hơn nhiều.
HẾT.