← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 10

Cơn đau nhói trong bụng Archie đã quay lại. Mưa rơi rào rào. Nước mưa làm da ai nấy trông đều trơn trượt. Nó làm mặt đất mút chặt lấy giày họ. Nó làm quần áo họ ướt sũng nước. Archie có thể cảm nhận được cái lạnh nhớp nháp trong tất với mỗi bước chân. Hai ống quần đầy bùn của anh đập vào bắp chân. Tóc dính chặt vào trán. Ít nhất anh vẫn đủ tỉnh táo để giấu cuốn sách đằng sau một thân cây. Điều cuối cùng anh muốn là Henry phát hiện ra anh luẩn quẩn trong rừng với một bản Nạn nhân cuối cùng dính bùn.

Archie tập trung nhìn vào quầng sáng nhỏ từ đèn pin trên nền đất rừng và chuyển tâm trí vào nhiệm vụ trước mắt.

Công việc tiến triển rất chậm. 90 xen-ti-mét thường xuân và dây bìm bìm đang phủ lên tất cả mọi thứ trong tầm nhìn. Anh bắt đầu từ bên trái rồi chậm rãi xoay ánh sáng khắp bề mặt lá mục, từng phân một, tiến lên, rồi sang phải. Henry đang ở bên trái Archie, một trong các cảnh sát tuần tra thì đứng bên phải anh ấy. Một cảnh sát khác và bốn tình nguyện viên của đội Tìm kiếm Cứu nạn đang xếp hàng ngang làm việc ở hướng ngược lại. Thậm chí cả nhà điểu cầm cũng nhận được một chiếc đèn. Đến giờ, họ chỉ tìm được một con chim đã chết, bị lũ kiến xơi mất phân nửa, một chai Mountain Dew rỗng không và vài bãi phân chó.

Susan cũng mượn một cây đèn nhưng đang dùng răng cắn chặt nó để ghi chép điên cuồng lên cuốn sổ tay. Archie muốn cô viết một bài báo. Anh vẫn không có manh mối gì về nhân thân của cô Jane Doe, và tin tức về vụ này trên phương tiện truyền thông địa phương chỉ giới hạn ở một đoạn văn duy nhất trong mục Đô thị của tờ Người đưa tin. Anh cần đăng báo. Và cần đăng nhiều là khác.

Bên trái. Tiến lên. Bên phải. Rồi Archie quỳ xuống đất bùn, bắt đầu kéo thường xuân và bìm bìm sang bên để nhìn xuống bên dưới. Những thân dây leo nặng và khó xoay xỏa, hai bàn tay Archie trông xước xác bẩn thỉu, như thể anh đã bị chôn sống và phải dùng tay cào đất mà bò lên.

Anh nghe Henry nói, “Việc này thật lố bịch.”

Đúng thế thật. Họ có thể trở lại vào sáng mai. Nếu đúng là có một cái xác ở đây, có thể chờ thêm mười hai tiếng nữa. Nhưng Archie cần phải biết. Nếu có một người phụ nữ đã chết nơi đây, anh cần tìm được cô ta. Anh sẽ ở đây cả đêm để tìm kiếm. Ít nhất như vậy còn dễ dàng hơn là về nhà.

Anh chiếu đèn pin lên đồng hồ. Họ đã tìm kiếm gần một tiếng đồng hồ.

Một chú chó sủa vang. Archie nhìn lên và thấy hình người tối đen trên đường mòn và bóng một con vật. Anh quăng ánh đèn chiếu xuống dưới, về phía nó. Ánh sáng phản chiếu trên mắt con thú, hai thiên thể bạc trong bóng đêm.

“Tên nó là Cody”, người đi cùng chú chó nói. “Tôi là Ellen. Ai trong hai anh là Sheridan?”

“Tôi đây”, Archie trả lời.

Cô ta bước tới, trèo lên chỗ anh, con chó ngoan ngoãn theo sau vài chục xen-ti-mét. Họ chĩa đèn pin lên con đường để dẫn lối cho cô, và Archie đã thấy cô rõ hơn. Cô ta là một phụ nữ to lớn, vừa cao lại hơi đậm người, thân trên dài lấn át cả cơ thể và dáng đi giạng chân kiểu nam tính. Cô buộc tóc đuôi ngựa và mặc quần áo thích hợp với thời tiết, ủng cao su cao cổ, quần đi mưa màu vàng và một chiếc áo khoác bo gấu. A, tháng Sáu ở Portland.

Khi đến chỗ Archie, cô ta đưa một bàn tay ra và anh bắt tay cô. “Được rồi”, cô nói. “Cách làm là thế này nhé. Tôi sẽ tháo xích cho Cody. Nó sẽ sục sạo quanh đây, tìm mùi. Nếu tìm được cái gì đó, nó sẽ quỳ xuống như thế này.” Cô nhìn xuống con chó và nói, “Cody, cảnh giác”, và con chó quỳ xuống hai khuỷu chân, tru lên. Ellen nhìn lên. “Tôi sẽ khen nó. Rồi anh có thể tiến lại và kiểm tra xem nó tìm được gì.”

Archie đã từng làm việc với những chú chó nghiệp vụ. Có lần Gretchen từng gửi một hộp quà cho Thanh tra Archie Sheridan, đặt ở khách sạn tại Bắc Portland. Nhân viên khách sạn đã gọi cho 911 sau vài phút tìm thấy hộp quà. Archie mở cái hộp rồi mang một chú chó đến để xác định. Cách đó đã hiệu quả.

“Cứ cho là vẫn còn những phần thi thể”, Henry nói, “việc này còn kéo dài đến bao giờ?”

“Có thể vài phút”, Ellen nói. “Cũng có thể vài ngày.”

“Vài ngày”, Henry nói.

“Hoặc lâu hơn”, Ellen chữa lại. Cô ta cúi xuống và mở khóa xích cho con chó. “Cody, đi”, cô ta nói.

Chú chó gí mũi xuống đất và bắt đầu cày xới đám dây leo.

Susan bước đến và lấy chiếc đèn pin khỏi miệng. “Chị làm ở đội Tìm kiếm Cứu nạn bao lâu rồi?”

“Tôi không thuộc đội”, Ellen nói.

“Cô ấy là tình nguyện viên”, Archie nói. “Chúng tôi không có đủ tiền để tài trợ cho cả một đơn vị chó nghiệp vụ. Nên những người như Ellen trải qua vài khóa huấn luyện cùng chó của họ và tình nguyện làm việc.”

“Tôi làm ở Home Depot”, Ellen nói.

“Chúng tôi đã tìm thấy một thi thể cách đây vài ngày ở khoảng bốn trăm mét dưới con rạch”, Archie nói. “Việc ấy có làm nó phân tâm không?”

“Anh di chuyển cái xác chưa?” Ellen hỏi.

“Rồi”, Archie nói.

“Thế thì không sao”, Ellen nói. “Đấy”, đột nhiên cô ta la lên. Cô ta chĩa đèn pin vào Cody, nó đang quỳ cách chỗ Archie và Henry vừa tìm kiếm vài mét. “Giỏi lắm”, Ellen nói. Cô ta tiến lại đằng sau con chó, lại đeo xích cho nó và xoa đầu nó thật nhiều.

Chỗ Cody đang chỉ phủ đầy dây leo. Archie đi đến và quỳ mọp trên tứ chi. “Chiếu đèn của các anh vào đây”, anh nói. Từng người đứng vòng quanh anh, Susan, nhà điểu cầm học, Henry, Ellen, các cảnh sát tuần tra, đội Tìm kiếm Cứu nạn, mỗi người chiếu một chiếc đèn vào chỗ chú chó đã quỳ, đến khi mười vòng tròn ánh sáng tụ lại làm một. Hai tay của Archie gạt thường xuân và bìm bìm sang một bên. Anh bắt đầu chậm rãi, có phương pháp, cẩn thận không đụng chạm bất kì thứ gì không cần thiết, rồi bắt đầu giật dây leo, nhổ rễ và ném chúng sang bên. Khi đã dọn sạch khu vực đó, anh quỳ thấp.

Susan cúi xuống. “Chẳng có gì ở đó cả”, cô nói.

Archie quay sang con chó. “Chúng ta có nên đào bới không, cậu nhóc?” Anh hỏi, gãi đầu nó bằng bàn tay lấm bùn. “Nó có bị chôn vùi không?”

Cody nghiêng đầu nhìn Archie rồi nhìn vào chỗ lúc này chỉ còn là một mảng đất.

“Tôi sẽ đi lấy xẻng”, một trong các tình nguyện viên đội Cứu nạn nói, anh ta quay ra đường mòn một cách ồn ào.

Archie nhìn xuống bùn. Nó lổn nhổn đầy sỏi và rễ cây. Archie nhặt một viên sỏi lên và xoay nó giữa hai ngón tay. Nó nhẹ và có lỗ li ti. Anh chạm nhẹ nó vào lưỡi.

“Sao anh lại ăn viên đá ấy?” Susan hỏi.

“Nó không phải là đá!” Archie nói. Đá có sức nặng và không dính vào nước bọt. Cái này lại có lỗ lĩ ti. “Nó có thể là xương.”

Cody kêu ư ử và giật sợi xích.

Archie nhìn lên con chó. Còn một thi thể nữa. “Thả nó đi”, anh bảo Ellen.

Cô ta tháo xích cho Cody và chú chó nhảy đi, mũi lại gí xuống đất, trèo lên đồi khoảng chín mét rồi phục xuống.

Archie nhặt cây đèn lên và lần mò sau chú chó, chỉ thoáng nhận thấy những người khác sau lưng mình, đèn pin của họ tung tẩy trong bóng tối. Lưng đồi này dày đặc dương xỉ, to như thời tiền sử. Anh kéo mình lên trên con dốc bằng cách túm đầy một nắm lá dương xỉ, dùng hệ thống rễ của nó làm điểm tựa. Những cái hạt nhỏ xíu của chúng mắc vào tay anh. Khi đến chỗ Cody, anh quỳ xuống cạnh nó và chú chó liếm mặt anh. Rồi nó lại ư ử và sục mũi vào đám dương xỉ lớn tiếp giáp với cây cỏ ống mọc xiên trên đồi. Archie vươn tay ra và gạt lá dương xỉ, chĩa đèn xuống dưới.

“Thấy gì không?” Henry gọi từ sau lưng anh.

“Có”, Archie bảo.

Bộ xương chỉ còn một phần, nhưng chắc chắn là xương người. Anh chiếu đèn pin đi xa hơn dưới những cây dương xỉ và trông thấy phần còn lại của một khuôn mặt.

“Cô ta đây rồi”, anh lặng lẽ nói.

Susan và Henry xuất hiện ở hai bên anh. Susan quỳ xuống cạnh anh, chân cô chạm chân anh. Anh đang quen dần với việc có cô ở gần.

“Ba cái xác chỉ trong vòng một trăm mét đổ lại”, cô nói, bút đã dựng trên sổ. “Họ có liên quan đến nhau không?”

“Có thể”, Archie nói. “Hoặc là không.” Anh nhìn vào khu rừng tối. Trời đã ngừng mưa và các đám mây đã tách ra, hé lộ một mảnh trăng sáng quắc. Ở xa xa, qua hàng cây bên rìa khu rừng, anh có thể trông thấy ánh sáng của một ngôi nhà.

“Tìm hiểu xem có những ai sống ở đó”, anh bảo Henry. “Rồi hỏi xem họ có máy cưa gỗ nào không.”