CHƯƠNG 9
Susan nghĩ đến chuyện về nhà và thay sang quần áo đi công viên: giày leo núi, áo mưa, có thể là một chiếc quần soóc da có đai. Nhưng cô không muốn tỏ ra là mình đang hết sức cố gắng. Thế nên cô chỉ mặc chiếc áo nỉ có mũ bên ngoài váy đen. Cô đang đi tông, nhưng trong cốp xe luôn có một đôi giày thể thao để phòng các trường hợp như thế này. Cô chỉ bị hỏng một đôi bốt đắt tiền ở hiện trường tội phạm là đã học được bài học này. Bây giờ trong cốp xe cô luôn chứa đầy các công cụ tác nghiệp: một đôi giày dự trữ, áo khoác chống thấm nước, sổ tay, nước, một cái mũ có vành, pin cho máy ghi âm, băng vệ sinh khẩn cấp. Bạn không bao giờ biết mình có thể chui đến xó xỉnh nào và kẹt lại đó bao lâu.
Giao thông thật tồi tệ. Mưa bắt đầu rơi và các ống cống đầy tràn, nước đọng thành vũng ở mỗi góc phố. Giao thông luôn tệ hại mỗi khi trời mưa giữa mùa hè. Kể cả khi nơi này mưa suốt chín tháng trong một năm, người Portland vẫn luôn thấy bất an khi có cơn mưa trái mùa.
Bliss thì thấy mưa rất quyến rũ, nhưng bà đâu có lái xe. Nó làm Susan như muốn giết chết ai đó.
Mất bốn mươi phút cô mới vượt qua sông và đi lên mạn tây bắc. Susan nghe mọi người gọi tới một chương trình trò chuyện trên đài phát thanh để chia sẻ các kỉ niệm đáng nhớ về ngài Thượng nghị sĩ. Nhưng nó chỉ càng khiến cô điên tiết, nên cô chuyển kênh sang một chương trình nhạc rock. Đến lúc cô đưa chiếc Saab già cỗi rẽ vào một chỗ trống bên cạnh xe cảnh sát ngầm và ba chiếc xe tuần tra thì cô cũng từ bỏ luôn việc nghe nhạc. Cô kéo mũ trùm lên mái tóc xanh ngọc và ra khỏi xe.
Có một cảnh sát mặc đồng phục ngồi trong chiếc xe tuần tra. Anh ta mặc áo mưa, ngồi trên ghế tài xế với ngọn đèn trần bật sáng và đang viết lên một tấm bảng. Susan gõ vào cửa kính.
Anh ta nhìn lên. Chiếc áo mưa của anh ta bị ướt và trông anh ta không vui vẻ gì khi phải ngồi ở đó. Anh ta kéo cửa kính xuống độ một phân.
“Archie Sheridan?” Cô hỏi.
Anh ta chỉ vào đầu đường, rồi vượt qua nó, vào trong rừng tối. Sau đó anh ta lại kéo cửa lên.
“Cảm ơn”, Susan nói. Cô nghĩ đến chuyện hỏi mượn cây đèn pin, nhưng dường như anh ta không có tâm trạng tốt lành đó.
Cô thay sang đôi giày thể thao, đút hai tay vào túi áo nỉ và bắt đầu đi bộ. Mặt đất ở cả hai bên con đường xi măng dẫn tới đầu đường mòn đều đã thành bùn. Nó sáng mờ dưới ánh đèn công viên. Khi cô đi tới rìa khu rừng tối, cô chớm có ý định quành lại ô tô, về nhà, lên giường, nhưng rồi lại nghĩ đến Parker và chuyện ông ta sẽ đi xa đến đâu vì một câu chuyện, thế là cô so hai vai lại và đâm đầu vào bóng tối.
Bầu trời vẫn còn đủ ánh sáng khi cây cối ở đây chìm trong bóng râm và mỗi cành nhánh lại trông như một cánh tay đang cong lên giận dữ. Susan không thể không nghĩ về Gretchen Lowell khi cô đi bộ dọc con đường lát sỏi, bùn hút lấy bàn chân cô. Gretchen đã vứt bỏ ít nhất hai cái xác trong những khu rừng này. Có phải chuyện này là như thế không? Lại thêm một nạn nhân nữa của Mỹ nhân đoạt mạng? Susan thọc tay sâu hơn vào trong túi và rảo bước.
Cô đi được khoảng bốn trăm mét thì bắt gặp họ. Cô có thể thấy ánh đèn pin phía trước, những vệt sáng trắng dài nhảy nhót trên thân cây tuyết tùng. Cảnh sát lúc nào cũng dễ nhận diện, cầu Chúa phù hộ cho trái tim họ.
Đồng thời cũng rất khó bí mật tiếp cận họ, khi cô vẫn cách đó 9 mét thì một trong những ánh đèn pin dừng lại và xoay ngược, hạ cánh trên mặt cô. Cô chớp mắt trước ánh sáng. “Tôi đang tìm Thanh tra Sheridan”, cô tuyên bố.
Một cái bóng to lớn xuất hiện đằng sau ngọn đèn và cô nghe tiếng Henry Sobol nói, “Ồ, quỷ tha ma bắt, là cô.”
Đèn pin hạ xuống.
Susan giơ ngón tay với Henry, “Chào anh”, cô nói.
“Cậu ấy ở kia kìa”, Henry nói, quăng ánh đèn ra sau để chiếu sáng Archie, người đang ngồi trên một thân cây đổ ngoài lề đường mòn. Henry cong môi nhăn nhó. “Chúng tôi đang chờ một chuyên gia về chim”, anh ta nói.
“Nhà điểu cầm học”, Archie chỉnh.
Susan thực sự nghe được tiếng Henry đảo tròng mắt. “Sao cũng được”, anh bảo.
Cô đi đến chỗ Archie đang ngồi. Anh có cây đèn pin đặt dưới chân, đang chiếu vào rừng, vì thế cô cũng nhận ra phần nào hình dáng anh để biết anh đang ướt nhẹp và bê bết bùn đất.
“Anh bị ngã à?” Cô hỏi.
“Cô có biết gì về chim chóc không?” Anh hỏi.
Cô chống hai tay lên hông. “Đấy là lí do anh gọi tôi ra đây?”
Anh cầm đèn pin lên chiếu vào tổ chim đang ôm trên tay. “Ở đây có tóc người”, anh nói. “Màu vàng. Có một cái xác nữa.”
Susan cúi xuống nhìn vào trong tổ. Cô hoang mang. “Anh tìm được một tổ chim à?”
“Một cậu bé đã đưa nó cho tôi. Cậu ta tìm được trên đỉnh đồi.”
“Cậu bé?” Susan nói và nhìn quanh khu rừng tối.
Henry đi đến sau lưng cô. “Nó đi mất rồi”, anh giải thích.
“Nó đã biến mất”, Archie nói.
“Thằng bé á?” Susan lại hỏi.
Archie nhìn lên Henry. “Anh gọi cho đội Tìm kiếm Cứu nạn chưa?”
“Chỉ dựa vào những sợi tóc trong tổ chim ư?” Henry chĩa đèn xuống cơ thể đầy bùn và cành cây gãy của Archie. “Cậu có sao không?” Anh hỏi, nhỏ giọng lại. “Debbie đã gọi cho tôi, cậu biết đấy. Sau khi cậu lao ra khỏi nhà trong một cơn bão than thân trách phận.”
“Thực ra là giống cơn hờn hơn”, Archie nói.
“Cô ấy lo lắng cho cậu”, Henry bảo.
“Hai người nên khai mạc một câu lạc bộ.” Archie đứng dậy. “Tôi không muốn chờ nữa.” Anh gọi ba cảnh sát mặc đồng phục đang đứng cùng đèn pin. “Tôi muốn có một đội vai kề vai cùng đèn pin. Cứ bình tĩnh mà làm. Chúng ta đang tìm kiếm một thi thể phụ nữ.”
“Archie”, Henry gọi.
Archie chĩa đèn pin thẳng lên lưng đồi đầy bùn. “Chúng ta sẽ đi lên trên kia”, anh nói. “Đó là chỗ thằng bé tìm thấy cái tổ. Vậy nên đó là nơi chúng ta bắt đầu.”
“Chờ đã”, Henry nói.
“Tôi chờ đủ rồi”, Archie nói.
“Không”, Henry bảo. “Chờ đi.” Anh ta quăng đèn pin ra đằng sau mình và chiếu sáng gương mặt một người đàn ông.
Susan thở dốc.
Tất cả cảnh sát đều quay lại nhìn cô.
“Xin lỗi”, cô nói.
Người đàn ông mỉm cười. Anh ta để râu, đeo kính và mặc một chiếc áo mưa có mũ. “Ai đó đã gọi nhà điểu cầm học phải không?” Anh ta hỏi.
Archie vẫy tay. “Là tôi.”
Người đàn ông bước tới. “Tôi là Ken Monroe. Chúng ta đã nói chuyện qua điện thoại.”
Archie bắt tay anh ta. “Cảm ơn anh vì đã đến”, Archie nói.
“Chắc chắn rồi.” Anh ta cười háo hức. “Chúng tôi thường không hay nhận được các cuộc gọi khẩn cấp.”
Tôi cá là thế mà, Susan nghĩ.
“Anh có thể nói gì cho tôi biết về thứ này?” Archie hỏi, chiếu đèn pin vào trong tổ chim lần nữa.
Susan cũng xích lại khi tất cả họ tụ tập quanh cái tổ.
Monroe cúi xuống cách cái tổ vài phân, rồi quan sát tỉ mỉ. Anh ta hỏi, “Anh tìm được nó ở đâu?”
Archie hất đầu ra hiệu lên đồi. “Trên kia”, anh nói.
“Nó là một tổ chim sẻ hót”, Monroe nói.
Susan lôi sổ ra và ghi chép. “Anh có thể nói tên loài chim chỉ bằng cách nhìn vào tổ của nó ư?” Cô hỏi. Với cô thì mọi chiếc tổ đều giống nhau.
Monroe gật đầu. “Vâng, chắc chắn rồi”, anh ta nói. “Có thấy nó được tạo hình như thế nào không? Như một cái cốc? Cô có thể thấy lớp mặt ngoài sần sùi tạo bởi lá và thân cỏ khô.” Anh ta chạm vào bên ngoài tổ. “Một ít rễ con và vài thớ vỏ cây. Nếu cô nhìn vào đây, cô có thể thấy nó được đan bằng loại cỏ mềm hơn và tóc.”
“Tôi quan tâm đến chỗ tóc đấy”, Archie nói.
“Một vài loài chim sử dụng nó để vá tổ. Không hay gặp, nhưng không phải là chưa từng nghe nói tới.”
“Rồi sao nữa?” Henry hỏi. “Chúng lấy nó từ thùng rác ngoài hiệu cắt tóc chắc?”
Monroe cau mày. “Thùng rác ư? Không hẳn. Anh nói là chiếc tổ này được tìm thấy ở đây à?”
“Trên đồi”, Archie nói.
“Chà, tóc này hẳn phải ở gần đây. Chim không di chuyển xa để tìm vật liệu xây tổ. Hầu hết các tổ chim chỉ được làm trong một, hai ngày. Chẳng ích lợi gì mà bay đi xa cả.” Monroe nhìn lên đồi. “Không, loại tóc này phải tới từ trong rừng. Tôi dám chắc là trong bán kính ba trăm mét quanh đây thôi.”
Susan thấy da gà nổi hết lên cánh tay.
“Anh biết cái tổ này được làm khoảng bao lâu rồi không?” Archie hỏi.
“Không lâu hơn một hoặc hai năm.”
“Làm sao anh biết?” Henry hỏi.
“Vì loài chim luôn tách đàn”, Monroe giải thích. “Nếu chúng không làm vậy thì lúc này chúng ta đang đứng trên hàng trăm con rồi.”
“Vậy tất cả những gì chúng tôi cần làm là lục soát trong vòng ba trăm mét ở mọi hướng”, Archie nói.
Henry rên lên. “Thế có mà rộng bằng sân bóng đá.”
“Có lẽ chúng ta nên gọi đội Tìm kiếm Cứu nạn”, Archie nói.
Henry nhìn vào anh một phút rồi lôi điện thoại ra khỏi cái kẹp trên cạp quần và bấm số. “Có lẽ tôi sẽ gọi một chú chó nghiệp vụ nữa”, anh ta bảo.
Susan trông thấy Archie cười. “Ý hay đấy”, anh nói.