← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 15

Người lấy dấu vân tay lăn ngón trỏ tay phải của Susan từ trái sang phải trên miếng bọt biển màu tím sẫm. Anh ta bắt đầu từ ngón tay cái của cô và đang lần lượt làm tiếp đến ngón tay út. “Sàng lọc dấu vân tay”, họ gọi công việc này bằng cụm từ đó. Lần sau, khi đột nhập vào một ngôi nhà khác, chắc chắn cô sẽ đeo găng tay.

“Mong là mực sẽ sớm phai đi”, Susan nói.

Cô ngồi trên một chiếc xe cảnh sát, cánh cửa đôi của chiếc xe mở ra ở hai bên chặn tầm nhìn của những người bán hàng rong dàn hàng bên vòng dây bảo vệ hiện trường vừa được giăng lên nửa tiếng trước. Mưa đã tạnh, nhưng nó không tạnh trước khi tóc của Susan xù hết cả lên. Bộ đàm cảnh sát kêu rè rè, đèn báo hiệu lấp lóa. Mọi người hối hả bước đến vị trí đã định. Máu trên quần jean của Susan đã bắt đầu khô, làm lớp vải jean trên đầu gối trở nên cứng lại. Cô đành cố gắng phớt lờ nó.

Người lấy dấu vân tay ngồi cạnh cô, một thẻ lấy dấu vân tay của cảnh sát được đặt trên chiếc giường ở giữa bọn họ. Đôi mắt sùm sụp của anh ta không hề dao động trong lúc làm việc, còn cái đầu hói thì cúi xuống bàn tay cô đang đặt bên cạnh. “Giữ yên”, anh ta nói với Susan.

Henry hắng giọng và dùng bút gõ lên chiếc laptop của mình. Mười phút trước, anh rời khỏi căn biệt thự, há hốc mồm, đôi mắt giấu sau cặp kính râm như nướng chín cô từ bao giờ.

“Sao tên đó lại có được số điện thoại của cô?” Henry hỏi.

“Ai cũng có thể lấy được”, Susan đáp. “Nó nằm trong chữ ký email của tôi. Tôi là phóng viên. Tôi cần phải giữ liên lạc với mọi người.” Cô cúi người về phía trước, cố gắng liếc nhìn những ghi chú của anh. Cô nên là người đặt câu hỏi cho anh mới phải. Đối với một phóng viên mà nói, cô đã dành quá nhiều thời gian cho việc bị phỏng vấn rồi. “Tôi nghe nói anh tìm thấy đầu của một thi thể”, cô nói.

Henry ép cuốn sổ vào ngực. “Tôi nên bắt giữ cô vì tội xâm nhập trái phép”, anh nói. “Cô đang nghĩ cái quái gì vậy?”

“Tôi muốn đánh cược một lần”, Susan đáp. Cô nhìn xuống đôi giày của mình. Chúng bị bùn vấy bẩn. Có lẽ cô đã để lại dấu chân khắp căn nhà. “Chàng trai đã chết là ai?” Cô hỏi.

Henry xoa sau gáy như thể nó bị đau.

Susan có thể nghe thấy nhiều tiếng còi báo động từ xa. Người lấy dấu vân tay chuyển sang ngón tay tiếp theo. Cô liếc nhìn, sau đó dành hết sự chú ý vào đầu ngón tay màu tím. “Nghiêm túc mà nói”, cô lên tiếng, “loại mực này chỉ cần rửa nước là sạch, đúng không?”

“Nạn nhân không mang theo thẻ căn cước”, Henry nói và Susan nhìn lên. “Pháp y nói chàng trai này độ tuổi đôi mươi. Chỉ mới tử vong trong khoảng từ 2 đến 6 giờ.” Henry nghiêng người về phía cô. Đó là một chuyển động nhỏ, thay đổi trong tư thế chỉ một inch, dù để ý cũng khó có thể nhận ra, nhưng Henry to lớn như một ngọn núi, và tất cả những gì Susan có thể làm là cố gắng không co rúm lại. “Kể cho tôi nghe về kẻ gọi điện thoại kia đi”, Henry nói.

“Vậy anh kể cho tôi nghe về cái đầu trước đã”, cô đáp.

“Chúng tôi tìm thấy nó”, Henry nói. “Ở biệt thự Pittock. Chúng tôi phải đóng cửa một phần sân sau, nhưng cô vẫn có thể tham quan ngôi nhà. Tôi nghĩ họ sẽ tính thêm tiền.”

Susan kéo chiếc áo ẩm ướt của mình. “Giọng anh ta nghe không còn trẻ”, cô nói về kẻ gọi điện thoại. “Nghe cũng không già cả gì. Anh ta nói mình thuộc một nhóm người hâm mộ Gretchen Lowell.” Sau đó cô tự sửa lại lời mình. “Ý tôi là không phải hội nhóm cụ thể nào. Anh ta nói tôi đã để lại tin nhắn trên trang web của anh ta, rằng tôi muốn viết về nhóm của anh ta.” Henry đặt bút trên cuốn sổ, dường như vẫn đang chờ cô nói điều gì đó đáng để ghi lại. Cô quấn một lọn tóc tím quanh ngón tay và cố nhớ xem mình còn liên lạc với hội nhóm nào nữa không, cô sử dụng internet triền miên, nhưng chỉ tìm đến những câu chuyện về Gretchen. “Tôi đã liên lạc với các trang web của những người hâm mộ Mỹ nhân đoạt mạng.” Cô bỏ qua chuyện kẻ kia không nhận ra nhạc của Jimi Hendrix. Cô không nghĩ Henry sẽ quan tâm.

Henry ghi lại một điều gì đó. Susan nâng cằm lên để đọc nó. “PM PC.” Anh khoanh tròn nó lại. “Nó có nghĩa là gì vậy?” Cô hỏi.

“Tôi muốn lấy ổ cứng của cô”, anh nói.

Anh đùa đấy à. “Không”, Susan đáp. Và cô cảm thấy cần phải nói thêm, “Tôi dùng laptop hiệu Mac chứ không phải PC.”

Henry chỉnh lại kính râm, ấn cho nó vào đúng vị trí. Trời không nắng. Nhưng Susan không chắc đây là lúc để chỉ ra điều đó. “Chúng tôi cần theo dõi lịch sử truy cập internet của cô”, anh nói.

Susan lắc đầu. “Anh có biết tôi tự tìm kiếm tên mình trên Google bao nhiêu lần không?” Cô đáp. “Không đời nào.”

Henry cúi đầu và ngước nhìn cô từ dưới đôi kính râm, và cô biết tại sao anh lại đeo chúng. “Đây là một cuộc điều tra kẻ giết người”, anh nói. “Cô đang cản trở công lý.” Anh nghiến răng. “Và làm tôi bực mình.”

“Tôi là một nhà báo”, cô nói rồi đứng thẳng lên. “Tôi sẽ không giao máy tính của mình cho cảnh sát.” Khi cảnh sát vừa đến, cô đã nói rằng mình sẽ không cho họ xem nhật kí cuộc gọi. Cô đang bảo vệ nguồn tin. Đó là luật. Một khi từ bỏ nguồn tin của mình thì bạn có thể quên tất cả những người đã từng trao đổi với mình. Parker đã dạy cô điều đó. Ông ta đã đi tù để bảo vệ một nguồn tin. “Chúc anh may mắn lấy được lệnh khám”, cô nói thêm. Người lấy dấu vân tay lăn ngón tay đeo nhẫn của cô trên bảng mực. Có vết bẩn dưới móng tay. “Anh có thể phân biệt dấu tay của vượn người với dấu vân tay người thường không?” Cô hỏi anh ta.

Người lấy dấu vân tay không ngẩng đầu lên. Anh ta nhấc ngón tay của cô ra khỏi bảng mực và ấn nó vào giữa hình vuông trên thẻ vân tay. Susan ngưỡng mộ sự tập trung của anh ta. “Có”, anh ta đáp.

Henry lại ghi chép gì đó. “Cô có nghĩ mình nhận ra được giọng người đó không?” Anh hỏi.

Susan cố gắng nhớ lại giọng nói người kia, nhưng nó tránh né khỏi tâm trí cô. “Chắc là có”, cô nói rồi nhìn xuống chiếc quần jean dính máu. Cảm ơn Chúa vì nó là quần jean đen. Nó có thể che giấu mọi thứ.

“Chàng trai mà tôi tìm thấy”, cô nói, khuôn mặt cậu ta vẫn hiện lên trước mắt cô với đôi mắt trắng như hai quả trứng, “đã chết như thế nào?”

“Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể loại trừ các nguyên nhân tự nhiên”, Henry đáp.

Susan đã quỳ gối bên cạnh thi thể đó và khiến cho máu dính lên quần. Tấm vải phủ đã bị thấm máu. Chàng trai ấy đã chảy rất nhiều máu. Không, cô nghĩ, trí não bắt đầu hoạt động. Những hình trái tim trên tường, chữ ký của Gretchen, trang web của người hâm mộ. Đột nhiên cô hiểu ra. “Lá lách của cậu ta đã biến mất phải không?” Phản ứng của Henry gần như không thể phát hiện được. Nhưng anh đã nao núng.

Ai đó đã lấy đi lá lách của cậu ta. Giống như Gretchen từng làm với những nạn nhân khác, giống như ả đã làm với Archie. Ả đã làm thế với Archie mà không cần gây mê. Sau đó ả gửi nó cho Henry. Cổ họng của Susan thắt lại và cô phải nuốt vài lần trước khi có thể nói. “Tôi có cần được bảo vệ không?” Cô hỏi.

Henry tháo kính râm ra và nhìn cô. Cái đầu cạo trọc của anh vẫn sáng bóng dưới trời mưa. “Rời khỏi thành phố này đi”, anh nói.

Đó là một ý hay. Tới Mexico vài tháng. Nhận vài công việc viết lách. Có lẽ mấy tháng trước cô đã có thể làm điều đó, trước khi gặp Archie. “Tôi không thể”, cô nói. “Tôi là một nhà báo. Tôi không thể.”

Mạch đập của Susan đang chạy dồn dập. Người lấy dấu vân tay hẳn đã cảm nhận được điều đó, vì anh ta ngước lên nhìn cô lần đầu tiên kể từ khi anh ta đến đây. “Koala”, anh ta nói. “Dấu tay của một con koala gần như không thể phân biệt với dấu vân tay của con người.”

“Thật sao?” Susan nói.

Anh ta ấn ngón tay cái của cô lên tấm thẻ. “Lần nào cũng lừa được chúng tôi”, anh ta nói.

“Anh có biết”, Susan nói, “trong hai mươi năm qua đã có chín đứa trẻ bị những cái bàn ăn ở trường đè đến chết hay không?”

Người lấy dấu vân tay liếc lên với ánh mắt lo lắng. “Không”, anh ta đáp.

Susan cảm thấy nhẹ nhõm hơn một chút, và não cô bắt đầu khoanh tròn các chi tiết. Ai đã gọi điện cho cô? “Anh có cho rằng cô ta có một đồng phạm mới không?” Susan hỏi Henry. Anh không trả lời. Thế rồi có một cái gì đó nảy ra trong đầu cô. “Những đồng phạm?” Cô hỏi lại, nhấn mạnh vào số nhiều. Hiện trường vụ án lóe lên trong tâm trí cô. Có mười chiếc đèn pin.

“Một người cũng có thể sắp xếp chỗ đèn pin đó”, Henry vừa nói vừa đeo kính râm. “Chúng tôi không muốn tiết lộ chuyện những chiếc đèn pin với truyền thông, được chứ?”

“Có lẽ cô ta có chín đồng phạm”, Susan nói. “Giống như một đội bóng chày giết người hàng loạt. Hoặc có lẽ cô ta đang thử thách bọn họ. Anh biết đấy, sau mỗi lần giết người, cô ta sẽ loại một trong số họ ra khỏi đội. Người cuối cùng còn sống sót sẽ trở thành bạn sát nhân với cô ta.”

Henry tỏ vẻ không thích thú gì. “Kể tôi nghe về những trang web hâm mộ đi”, anh nói.

“Người ta vẽ những bức tranh của cô ta và đăng chúng lên”, Susan trả lời. “Họ viết thơ, viết truyện hư cấu về cô ta. Mấy tuần trước tôi đã viết một bài về chuyện này.” Không có phản ứng. Susan thở dài bực tức. “Anh còn chẳng thèm đọc tờ Người đưa tin phải không?”

“Tôi nhận được tất cả tin tức từ hệ thống Trao đổi tin tức tự động”, Henry nói.

Người lấy dấu vân tay đưa cho Susan một chiếc khăn ẩm. Cô chà xát ngón tay vào chiếc khăn đó và mực trôi đi ngay. Thứ thấm trong chiếc khăn đó hẳn phải độc hại lắm. “Tôi phải làm việc”, Susan nói rồi đứng dậy. Người lấy vân tay giơ một chiếc túi nhựa ra và cô thả chiếc khăn lông màu đen vào đó.

Henry khoanh tay lại. “Tôi không thể thuyết phục cô giữ kín về những điều cô đã thấy phải không? Thế nên, cô biết đấy, tránh xa khỏi những chuyện ồn ào chết giẫm đi, được chứ?”

“Không thể”, Susan nói. “Vả lại anh đã tìm thấy một cái đầu. Anh không nghĩ người dân sẽ hốt hoảng vì nó hay sao?”

Henry lầm bầm. “Cô đang trở thành một phóng viên giỏi hơn rồi đấy”, anh nói.

“Nhà báo chứ”, cô sửa lại. Rồi cô vẫy tay với anh và bước ra khỏi xe.

“Chờ chút”, Henry gọi với theo, cô quay lại. Anh nhìn cô chằm chằm, đảo hàm, một tay đặt sau cổ. Rồi anh buông tay xuống và bước về phía cô. “Tôi chỉ nói với cô điều này vì nó sẽ được tiết lộ ra ngoài”, anh nói. “Thà để cô công bố còn hơn.” Anh thở dài. “Có một số chuyện ở trạm nghỉ chân mà chúng tôi chưa công khai.”