Chương 2 Viên kim cương xanh-
Buổi tối ngày Hai mươi bảy tháng Ba, tại số 134 đại lộ Henri-Martin, trong ngôi nhà thừa hưởng từ người anh trai sáu tháng trước, vị tướng già – Nam tước d’Hautrec, Đại sứ tại Berlin dưới thời Đế chế thứ Hai, ngủ thiếp đi trong chiếc ghế bành thoải mái dễ chịu, khi cô thư ký đang đọc sách cho ông ta nghe, còn xơ Auguste thì đang sưởi ấm giường cho ông ta và sửa soạn đèn ngủ. Lúc mười một giờ, bà xơ phải trở về tu viện theo quy định. Bà nói với cô thư ký: “Cô Antoinette, tôi xong hết việc rồi, tôi đi đây.”
“Vâng, thưa xơ.”
“Đừng quên là người đầu bếp đang đi vắng, ở nhà chỉ có cô với người đầy tớ thôi.”
“Xơ chẳng phải lo lắng cho Nam tước đâu. Tôi ngủ ở phòng bên cạnh và luôn luôn để cửa mở.”
Bà xơ rời khỏi ngôi nhà. Mấy phút sau, người đầy tớ Charles bước vào nhận mệnh lệnh. Nam tước lúc bấy giờ đã thức giấc, tự mình nói: “Các mệnh lệnh như mọi ngày đây Charles: Hãy để ý chiếc chuông điện trong phòng anh, ngay hồi chuông đầu tiên là phải chạy đi gọi bác sĩ. Nào, cô Antoinette, chúng ta đọc đến đâu rồi?”
“Ngài chưa đi ngủ bây giờ ạ?”
“Chưa, chưa, lúc nữa. Với lại, tôi không cần ai ở đây đâu.”
Hai mươi phút sau, Nam tước lại chìm vào giấc ngủ, Antoinette rón rén đi ra. Lúc đó, Charles đang đóng các cánh chớp cửa sổ ở dưới gác. Trong bếp, anh ta chốt chặt cửa mở ra vườn, và ngoài sảnh, anh ta không chỉ khóa cửa mà còn cài cả xích. Rồi anh ta lên phòng mình trên tầng ba, đi ngủ, và chẳng mấy chốc thiếp đi.
Có lẽ là được một tiếng đồng hồ thì Charles hoảng hốt bật dậy khỏi giường. Chiếc chuông đang reo. Nó reo có lẽ là chừng bảy, tám giây, liên tục.
“Ôi!” Charles đã trấn tĩnh lại, lẩm bẩm. “Một ý thích bất chợt nữa của ngài Nam tước đây.”
Anh ta nhanh nhẹn mặc quần áo, xuống cầu thang, dừng lại trước cửa phòng, gõ nhè nhẹ theo thói quen. Không có tiếng trả lời. Anh ta mở cửa, bước vào.
“Ô! Không có đèn.” Charles lẩm bẩm. “Thế này là thế nào?”
Rồi anh ta hạ giọng, gọi: “Cô ơi?”
Không có tiếng trả lời.
“Cô ơi, cô có đó không? Có chuyện gì à? Ngài Nam tước ốm à?”
Không có tiếng trả lời. Không có gì ngoài một sự im lặng hoàn toàn, sự im lặng nhanh chóng trở nên đáng sợ. Charles tiến về phía trước hai bước, bàn chân anh ta va phải chiếc ghế dựa, anh ta sờ soạng thì nhận ra là nó bị lật ngược. Rồi, vẫn bằng bàn tay sờ soạng, anh ta nhận ra các đồ vật khác nữa trên sàn: một chiếc bàn nhỏ và một bức bình phong. Anh ta lo lắng di chuyển tới sát bức tường, lần tìm công tắc, bật điện lên.
Chính giữa căn phòng, giữa chiếc bàn và chiếc tủ đựng đồ vệ sinh, là thân thể của chủ anh ta, Nam tước d’Hautrec.
“Cái gì!… Không thể thế được!” Charles lẩm bẩm.
Anh ta chẳng nhúc nhích nổi người. Anh ta cứ đứng đấy, trố mắt ngây ngô nhìn cái khung cảnh lộn xộn khủng khiếp, những chiếc ghế dựa bị lật ngược, chùm chúc đài pha lê lớn vỡ tan tành thành nghìn mảnh, chiếc đồng hồ nằm trên khoảng sàn lát đá cẩm thạch phía trước lò sưởi, tất cả các bằng chứng của một cuộc vật lộn ghê gớm, đáng sợ. Cán của một con dao găm nhỏ lấp lánh sáng, cách cái thân thể kia không xa, lưỡi dao có vấy máu. Một chiếc khăn mùi soa lốm đốm đỏ vương nơi mép giường.
Charles kinh khiếp lùi lại: Cái thân thể kia tự duỗi dài ra trong chốc lát rồi lại co lại, hai hay ba cơn rùng mình, và đến đây là chấm dứt.
Charles cúi xuống nhìn. Một vết cắt rất ngọt ở cổ nạn nhân mà từ đó máu đang tuôn ra, đông lại thành vũng đen trên thảm. Bộ mặt vẫn còn lưu nét khiếp sợ cực độ.
“Có kẻ đã giết ngài ấy!” Charles lẩm bẩm. “Có kẻ đã giết ngài ấy!”
Rồi anh ta run lên với ý nghĩ là biết đâu đã xảy ra một tội ác rùng rợn khác nữa. Chẳng phải cô thư ký của ngài Nam tước ngủ ở căn phòng bên cạnh sao? Liệu kẻ sát nhân có giết cả cô ấy không? Anh ta mở cửa căn phòng này, căn phòng không có ai. Anh ta kết luận rằng Antoinette bị bắt cóc rồi, hoặc cô đi ra ngoài trước khi xảy ra vụ việc. Anh ta trở lại phòng Nam tước. Ánh mắt dừng ở chiếc bàn viết, anh ta nhận ra chiếc bàn viết không suy suyển gì. Rồi anh ta trông thấy một nắm những đồng louis vàng trên bàn, bên cạnh chùm chìa khóa và chiếc ví mà Nam tước vốn vẫn để đó hằng đêm. Charles vồ lấy chiếc ví, mở ra, trông thấy mấy tờ tiền giấy. Anh ta đếm, có mười ba tờ một trăm franc.
Một cách bản năng và máy móc, anh ta nhét các tờ tiền vào túi áo khoác, lao xuống cầu thang, rút chốt cửa, tháo xích, đóng cánh cửa lại sau lưng, và bỏ chạy ra phố.
Charles là một người trung thực. Vừa bước chân ra khỏi cửa thì làn không khí và cơn mưa ban đêm khiến anh ta bình tĩnh hơn, anh ta dừng phắt ngay lại. Lúc bấy giờ, anh ta đã nhìn nhận hành động của mình theo đúng bản chất của nó, và trong lòng tràn ngập nỗi khiếp sợ. Anh ta vẫy một chiếc xe ngựa chạy ngang qua, bảo người xà ích: “Hãy đến đồn cảnh sát và đưa sĩ quan phụ trách đồn đến đây. Nhanh lên! Trong ngôi nhà kia có án mạng.”
Người xà ích vội vã đánh xe đi. Charles muốn quay vào nhà, nhưng thấy cửa bị khóa rồi. Anh ta đã tự sập khóa khi đi ra, và không thể mở từ bên ngoài. Mặt khác, bấm chuông cũng vô ích vì chẳng còn ai trong nhà cả.
Gần một tiếng đồng hồ trôi qua, cảnh sát mới tới. Khi họ tới, Charles thuật lại câu chuyện và đưa cho viên sĩ quan phụ trách số tiền. Một người thợ khóa được triệu tới. Anh ta phải hết sức chật vật mới phá nổi khóa của cửa mở ra vườn và cửa mở vào sảnh. Viên cảnh sát bước vào phòng Nam tước trước, nhưng, ngay lập tức, quay sang Charles, nói: “Anh bảo căn phòng lộn xộn kinh khủng mà.”
Charles đứng ở cửa, sửng sốt, hoang mang. Tất cả đồ đạc đã được đặt lại vào vị trí quen thuộc. Những chiếc ghế dựa được lật lại đúng chiều, chiếc bàn nhỏ ở giữa hai khung cửa sổ, chiếc đồng hồ ở trung tâm bệ lò sưởi. Những mảnh vỡ của chùm chúc đài được dọn sạch sẽ.
“Ngài Nam tước… đâu rồi?” Charles lắp bắp.
“Đúng thế!” Viên sĩ quan thốt lên. “Nạn nhân đâu rồi?”
Ông ta đến bên giường, lật một tấm mền lớn. Phía dưới tấm mền, Nam tước d’Hautrec, cựu Đại sứ Pháp tại Berlin, đang nằm. Tấm áo khoác quân đội phủ trên thân thể, cài huân chương Bắc Đẩu bội tinh. Nét mặt ông ta bình thản. Cặp mắt khép chặt.
“Ai đó đã ở đây.” Charles nói.
“Làm sao kẻ đó lọt vào đây được?”
“Tôi không biết, nhưng ai đó đã ở đây lúc tôi ra ngoài. Có con dao găm nhỏ trên sàn đằng kia! Và chiếc khăn mùi soa dính máu trên giường. Chúng bây giờ đã biến mất. Chúng đã được đem đi chỗ khác. Và ai đó đã sắp xếp lại gọn ghẽ căn phòng.”
“Ai đã làm những việc ấy?”
“Kẻ giết người.”
“Nhưng chúng tôi thấy tất cả các cửa đều khóa.”
“Lúc nãy hắn hẳn vẫn còn ở trong ngôi nhà này.”
“Thế thì bây giờ hắn vẫn còn ở đây, vì anh đã đứng trước cửa suốt.”
Charles nghĩ ngợi một lát, rồi chậm chạp nói: “Phải… đương nhiên… tôi không hề rời khỏi cửa.”
“Ai là người cuối cùng anh trông thấy bên cạnh ngài Nam tước?”
“Cô Antoinette, thư ký của ngài ấy.”
“Cô ta sao rồi?”
“Tôi không biết. Cô ấy chẳng ở trên giường, vậy hẳn là cô ấy đã ra ngoài. Điều này cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, cô ấy đang độ trẻ trung, xinh đẹp.”
“Nhưng làm sao cô ta rời khỏi nhà được?”
“Qua cửa.” Charles trả lời.
“Nhưng anh cài chốt và xích rồi mà.”
“Vâng, nhưng hẳn là cô ấy đã rời khỏi nhà trước đó.”
“Và tội ác xảy ra sau khi cô ta đi?”
“Đương nhiên.” Người đầy tớ đáp.
Ngôi nhà được lục soát từ hầm chứa cho đến gác xép, nhưng kẻ sát nhân đã biến mất. Bằng cách nào? Và bao giờ? Là hắn hay là một kẻ tòng phạm đã quay lại hiện trường vụ án, đem đi tất cả những gì có thể cung cấp manh mối về nhân thân hắn? Đó là câu hỏi mà cảnh sát phải trả lời.
Nhân viên điều tra có mặt lúc bảy giờ. Và tám giờ, Dudouis, Trưởng ban Thám tử, cũng có mặt tại hiện trường vụ án. Tiếp theo là ủy viên công tố và thẩm phán điều tra. Ngoài những vị quan chức này, ngôi nhà chật ních cảnh sát, thám tử, phóng viên, thợ chụp ảnh, thân bằng quyến thuộc của người chết.
Một cuộc khám xét kĩ lưỡng được thực hiện. Người ta nghiên cứu tư thế của cái xác theo thông tin mà Charles cung cấp. Người ta thẩm vấn xơ Auguste khi bà tới, nhưng không phát hiện ra chi tiết mới nào. Xơ Auguste sửng sốt khi biết Antoinette Bréhat đã biến mất. Bà vừa thuê cô gái trẻ cách đây mười hai ngày, căn cứ vào những lời giới thiệu rất tốt, và chẳng chịu tin rằng cô đã lãng quên bổn phận, đang đêm rời khỏi nhà.
“Nhưng, bà thấy đấy, cô ta chưa quay lại.” Ông thẩm phán nói. “Và chúng tôi vẫn phải đương đầu với câu hỏi: Điều gì đã xảy ra cho cô ta?”
“Tôi nghĩ kẻ sát nhân đã bắt cóc cô ấy.” Charles nêu ý kiến.
Giả thuyết này nghe hợp lý, và nó xuất phát từ những thực tế nhất định. Dudouis tán thành. Ông ta nói: “Bị bắt cóc! Chà, không phải là không có khả năng xảy ra.”
“Không những là không có khả năng xảy ra.” Một giọng nói cất lên. “Mà còn hoàn toàn trái ngược thực tế. Không có chút chứng cứ nào chứng minh cho giả thuyết này cả.”
Giọng nói với âm sắc chói tai, và chẳng ai lấy làm ngạc nhiên khi nhận ra người nói là Ganimard. Nếu là ở người khác, thì họ đã chẳng chịu được cái giọng áp chế đó.
“Ồ! Là anh, Ganimard!” Dudouis thốt lên. “Nãy giờ tôi chưa trông thấy anh.”
“Tôi đã có mặt tại đây từ lúc hai giờ.”
“Vậy là anh quan tâm tới cả những thứ khác ngoài tấm vé xổ số 514, series 23, vụ việc ở đường Clapeyron, Tiểu thư Tóc vàng và Arsène Lupin?”
“Ha ha!” Viên thám tử kỳ cựu phá ra cười. “Tôi sẽ chẳng bảo Lupin là kẻ xa lạ đối với vụ án hiện tại đâu. Nhưng chúng ta hãy tạm thời lãng quên tấm vé xổ số, và cố gắng lần cho ra manh mối của sự bí ẩn mới này.”
Ganimard không phải là một trong số các thám tử lừng danh mà phương pháp làm việc sẽ được viết thành sách giáo khoa, hay tên tuổi sẽ trở nên bất tử trong những ghi chép về lịch sử hình sự của nước Pháp. Ông ta không phải là một trong số các thiên tài, các nhân vật tiêu biểu của nghề nghiệp này như Dupin⦾, Lecoq⦾, hay Sherlock Holmes. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng ông ta sở hữu khả năng quan sát, sự thông minh, tính nhẫn nại, và thậm chí cả trực giác siêu việt. Ông ta xuất sắc nhờ phong cách độc lập hoàn toàn. Không có gì quấy rầy hay ảnh hưởng được đến ông ta, có lẽ trừ một kiểu ám ảnh đối với Arsène Lupin. Dẫu vậy chăng nữa, cái thế của ông ta sáng hôm đó, trong ngôi nhà của Nam tước d’Hautrec vừa chầu trời, chắc chắn và rõ ràng là một thể áp đảo. Đồng thời, ông thẩm phán điều tra cũng mong mỏi có được sự hợp tác của ông ta trong vụ án này.
“Đầu tiên…” Ganimard nói. “Tôi sẽ yêu cầu anh Charles cho biết hết sức cụ thể về một điểm. Anh ta bảo rằng lần thứ nhất anh ta vào phòng, các món đồ đạc bị đổ nhào, nằm bừa bãi lộn xộn. Bây giờ, tôi hỏi phải chăng lần thứ hai anh ta vào phòng, anh ta thấy tất cả đã được đặt lại vị trí quen thuộc, đương nhiên, ý tôi là, chính xác các vị trí quen thuộc?”
“Vâng, tất cả đều được đặt lại đúng vị trí.” Charles đáp.
“Vậy, hiển nhiên, cái người đã sắp xếp lại các món đồ đạc phải là người thông thuộc vị trí của chúng.”
Logic của nhận xét này hoàn toàn rõ ràng đối với những thính giả của Ganimard. Ông ta tiếp tục: “Một câu hỏi nữa, anh Charles. Anh bị tiếng chuông đánh thức. Nào, theo anh, ai bấm chuông?”
“Đương nhiên là ngài Nam tước.”
“Ông ấy có thể bấm chuông lúc nào?”
“Sau cuộc vật lộn… lúc ngài ấy sắp chết.”
“Không thể, vì anh phát hiện ra ông ấy nằm bất tỉnh ở vị trí cách cái nút chuông hơn bốn mét.”
“Vậy hẳn là ngài ấy bấm chuông trong khi vật lộn.”
“Không thể.” Ganimard tuyên bố. “Vì tiếng chuông, như anh nói, kéo dài liên tục bảy hay tám giây. Anh nghĩ đối thủ của ông ấy để ông ấy bấm chuông một cách ung dung như thế sao?”
“Ồ, vậy thì, trước khi ngài ấy bị tấn công.”
“Cũng hoàn toàn không thể, vì anh nói với chúng tôi từ lúc chuông kêu tới lúc anh sang phòng ông Nam tước tối đa ba phút. Nếu ông Nam tước bấm chuông trước khi bị tấn công, chúng ta bắt buộc phải đi đến kết luận rằng cuộc vật lộn, việc đoạt mạng và biến mất của kẻ sát nhân, tất cả chỉ diễn ra trong khoảng thời gian ngắn ngủi là ba phút. Tôi xin nhắc lại, điều đó là không thể nào.”
“Tuy nhiên, ai đó đã bấm chuông.” Ông thẩm phán phát biểu. “Nếu chẳng phải là ông Nam tước, thì là ai?”
“Là kẻ giết người.”
“Nhằm mục đích gì?”
“Tôi không biết. Nhưng việc hắn bấm chuông chứng tỏ hắn biết chuông được nối với phòng người hầu. Nào, ai có thể biết điều này, trừ phi là người cùng sống trong nhà?”
Ganimard đang thít những mắt lưới lại mỗi lúc một chặt hơn. Bằng vài câu logic, mạch lạc, ông ta đã hé lộ và từ từ đưa ra một cách rõ ràng giả thuyết về vụ án mạng, nên dường như hoàn toàn tự nhiên khi ông thẩm phán nói: “Ganimard, theo tôi hiểu, ông nghi ngờ cô Antoinette Bréhat.”
“Tôi không nghi ngờ cô ta, mà tôi buộc tội cô ta.”
“Ông buộc tội cô ta đồng lõa với thủ phạm?”
“Tôi buộc tội cô ta đã sát hại Nam tước d’Hautrec.”
“Vô lý! Ông có chứng cứ gì?”
“Nắm tóc tôi phát hiện được trong lòng bàn tay phải của nạn nhân.”
Ganimard đưa nắm tóc ra, nó có một màu vàng tuyệt đẹp, óng ánh như những sợi chỉ bằng vàng ròng. Charles nhìn và nói: “Đó là tóc của cô Antoinette. Không thể nào ngờ vực được. Và, thế thì, còn một vấn đề nữa. Tôi tin con dao mà tôi trông thấy lúc vào phòng lần thứ nhất là con dao của cô ta. Cô ta vốn vẫn dùng nó để rọc sách.”
Sự im lặng kéo dài đầy đáng sợ bỗng bao trùm căn phòng, như thể tội ác đã thêm phần rùng rợn vì được ra tay bởi một phụ nữ. Cuối cùng, ông thẩm phán nói: “Cho tới lúc thu thập được thêm chứng cứ, chúng ta hãy tạm thời coi Antoinette Bréhat là thủ phạm giết chết ông Nam tước. Tuy nhiên, chúng ta phải biết cô ta đã lẩn trốn chỗ nào sau khi thực hiện tội ác, bằng cách nào cô ta có thể quay lại sau khi Charles rời khỏi ngôi nhà, và bằng cách nào cô ta có thể tẩu thoát sau khi cảnh sát tới? Anh đã có ý kiến gì về những điểm này chưa?”
“Chưa.”
“Chà, thế thì chúng ta đang đứng ở đâu đây?”
Ganimard ngượng ngùng. Rốt cuộc, với nỗ lực ai cũng nhìn thấy, ông ta nói: “Tất cả những gì tôi có thể phát biểu bây giờ là tôi thấy cách thức hành động trong vụ án này giống cách thức hành động chúng ta đã thấy trong vụ tấm vé xổ số 514. Các hiện tượng giống nhau, có thể gọi là cái tài đi mây về gió. Việc Antoinette Bréhat xuất hiện và biến mất trong ngôi nhà này cũng bí ẩn y như việc Arsène Lupin xuất hiện và biến mất trong ngôi nhà của ông Detinan cùng Tiểu thư Tóc vàng.”
“Điều đó có ý nghĩa gì không?”
“Đối với tôi là có. Tôi thấy hai vụ việc lạ lùng này có khả năng liên quan tới nhau. Xơ Auguste thuê Antoinette Bréhat mười hai ngày trước, hay nói chính xác hơn là một ngày sau khi Tiểu thư Tóc vàng khôn khéo thoát khỏi tay tôi. Thứ nữa, tóc của Tiểu thư Tóc vàng cũng có màu vàng rực rỡ y hệt món tóc được phát hiện ra trong vụ án này.”
“Như vậy, theo anh, Antoinette Bréhat…”
“Chính là Tiểu thư Tóc vàng.”
“Và Lupin đã nhúng tay vào cả hai vụ.”
“Vâng, đó là quan điểm của tôi.”
Lời tuyên bố này được chào đón bằng một tràng cười. Từ Dudouis.
“Lupin! Lúc nào cũng Lupin! Mọi chuyện đều có Lupin dính líu vào! Khắp nơi đều xuất hiện Lupin!”
“Phải, mọi chuyện hệ trọng đều có Lupin dính líu vào.” Ganimard đáp lời, phật ý trước sự cười cợt của cấp trên.
“Chà, cho tới lúc này, tôi thấy anh chưa phát hiện được động cơ của vụ án.” Dudouis nhận xét. “Ngăn kéo chiếc bàn viết không bị cạy, chiếc ví không bị lấy mất. Thậm chí, một đống vàng còn nguyên trên bàn.”
“Vâng, chính thế.” Ganimard thốt lên. “Nhưng còn viên kim cương trứ danh!”
“Viên kim cương nào?”
“Viên kim cương xanh! Viên kim cương nổi tiếng gắn trên vương miện của hoàng gia Pháp, được Công tước Aumale tặng cho Leonide Lebrun, và khi Leonide Lebrun qua đời, được Nam tước d’Hautrec mua như là một kỷ vật về nữ diễn viên duyên dáng yêu kiều mà ông ấy từng yêu mê đắm. Đó là một trong những câu chuyện mà một người Paris cỡ tuổi tôi không bao giờ quên.”
“Rõ ràng nếu viên kim cương xanh không được tìm thấy, động cơ của vụ án đã được phơi bày.” Ông thẩm phán nói. “Nhưng chúng ta phải tìm kiếm nó ở đâu?”
“Trên ngón tay ngài Nam tước.” Charles đáp. “Ngài ấy lúc nào cũng đeo viên kim cương xanh bên tay trái.”
“Tôi đã quan sát bàn tay ấy, chỉ có một chiếc nhẫn bằng vàng trơn.” Ganimard nói, sau khi đến gần cái xác.
“Hãy tìm trong lòng bàn tay xem.” Người đầy tớ nói.
Ganimard mở bàn tay nắm cứng đờ. Chiếc niềng gắn đá xoay vào bên trong, và, ở giữa chiếc niềng, viên kim cương xanh lấp lánh sáng với tất cả sự lộng lẫy của nó.
“Quỷ tha ma bắt!” Ganimard lẩm bẩm, kinh ngạc tột độ. “Tôi không hiểu nổi.”
“Bây giờ anh sẽ xin lỗi Lupin vì đã nghi ngờ hắn chứ?”
Dudouis cười to.
TGanimard dừng lại nghĩ ngợi một lát, rồi nói ngắn gọn: “Chỉ khi nào tôi không hiểu nổi những điều khiến tôi nghi ngờ Lupin.”
Đó là những sự việc được cảnh sát xác minh một ngày sau khi tội ác bí ẩn xảy ra. Không có phát hiện tiếp theo nào giải thích cho những sự việc mơ hồ và rời rạc ấy. Hành tung của Antoinette Bréhat vẫn chẳng tài nào giải thích nổi, y như hành tung của Tiểu thư Tóc vàng. Cảnh sát không phát hiện ra dấu vết gì của con người bí ẩn với mái tóc vàng đã sát hại Nam tước d’Hautrec nhưng không đoạt được từ ngón tay ông ta viên kim cương từng tỏa sáng trên vương miện của hoàng gia Pháp.
Những người thừa kế của Nam tước d’Hautrec không bỏ qua cơ hội kiếm chác từ vụ việc đang khiến cho dư luận bàn tán xôn xao như thế. Họ tổ chức trưng bày trong ngôi nhà những thứ sẽ được đưa ra bán đấu giá tại các phòng bán đấu giá của Công ty Drouot. Những món đồ gỗ với gu thẩm mỹ bình thường, những vật dụng chẳng có giá trị nghệ thuật gì cả… nhưng chính giữa căn phòng, trong chiếc hộp bọc nhung tím, được bảo vệ bằng một quả cầu kính, có hai sĩ quan cảnh sát gác liên tục, là chiếc nhẫn gắn viên kim cương xanh danh tiếng lẫy lừng.
Viên kim cương lớn tuyệt diệu, độ tinh khiết không một viên kim cương nào bì kịp, xanh thăm thẳm tựa làn nước trong vắt dưới bầu trời không một gợn mây. Có người ngắm nghía mê say, có người trầm trồ tán tụng… và có người khiếp sợ nhìn căn phòng của nạn nhân, nhìn vị trí cái xác đã nằm, nhìn sàn nhà đã được lột đi tấm thảm vương máu, và đặc biệt là những bức tường, những bức tường tưởng không tài nào vượt qua được, thế mà kẻ tội phạm đã vượt qua. Một số người tự kiểm tra để chắc chắn rằng mặt lò sưởi ốp đá cẩm thạch không xê dịch được, một số người khác thì hình dung đến những cái hố sâu toang hoác, những cái cửa đường hầm, những lối bí mật thông với hệ thống cống, và các hầm mộ.
Việc bán đấu giá viên kim cương xanh diễn ra tại phòng bán đấu giá của Công ty Drouot. Căn phòng đông đến nghẹt thở và người ta trả giá gần như điên rồ. Tham dự cuộc bán đấu giá là tất cả những nhân vật thường xuyên tham dự những sự kiện tương tự ở Paris, người thì mua, người thì giả vờ như có khả năng mua, các chủ ngân hàng, các tay môi giới chứng khoán, phụ nữ thuộc đủ mọi tầng lớp, hai ông bộ trưởng, một ca sĩ giọng nam cao người Ý, một ông hoàng lưu vong – ông này, cốt để giữ gìn danh tiếng, hét oang oang với vẻ cực kỳ phô trương, trả một trăm ngàn franc. Một trăm ngàn franc! Ông ta có thể đưa ra giá đó mà không sợ bị người điều hành chấp nhận. Ca sĩ giọng nam cao người Ý đánh liều trả một trăm năm mươi ngàn, và một thành viên Nhà hát Quốc gia Pháp trả một trăm bảy mươi lăm ngàn franc.
Khi mức giá lên đến hai trăm ngàn franc, các đối thủ nhẹ ký hơn bật bãi. Khi mức giá lên đến hai trăm năm mươi ngàn, chỉ còn lại hai đối thủ trên sân: Herschmann – nhà tư bản nhiều tiếng tăm, ông vua của các mỏ vàng, và nữ Bá tước Crozon – một người Mỹ giàu có, sở hữu bộ sưu tập kim cương, đá quý đình đám thế giới.
“Hai trăm sáu mươi ngàn… hai trăm bảy mươi ngàn… bảy mươi lăm… tám mươi…” Người điều hành hô to, trong khi liên tục đảo mắt nhìn từ đối thủ nọ sang đối thủ kia. “Quý bà đây trả hai trăm tám mươi ngàn… Có vị nào trả cao hơn không?”
“Ba trăm ngàn.” Herschmann nói.
Một quãng im lặng ngắn ngủi. Nữ Bá tước đứng yên mỉm cười, nhưng mặt tái đi trong trạng thái bị kích động. Bà ta tì người vào lưng chiếc ghế phía trước. Bà ta biết, và tất thảy mọi người ở đây đều biết, kết quả của cuộc đấu tay đôi đã chắc chắn rồi. Một cách hợp lý, tất yếu, nó phải kết thúc với lợi thế thuộc về nhà tư bản, người nắm trong tay không biết bao nhiêu triệu franc để mà chiều chuộng những sở thích thất thường của mình. Tuy nhiên, nữ Bá tước vẫn trả giá một lần nữa: “Ba trăm lẻ năm ngàn.”
Lại một quãng im lặng. Mọi cặp mắt hướng vào nhà tư bản, chờ đợi ông ta nâng mức giá lên. Nhưng Herschmann đang không chú ý gì đến cuộc mua bán. Ông ta đang đăm đăm nhìn một tờ giấy cầm trên tay phải, còn tay trái cầm một chiếc phong bì đã xé.
“Ba trăm lẻ năm ngàn.” Người điều hành nhắc lại. “Lần thứ nhất!… Lần thứ hai!… Lần cuối cùng… Có vị nào trả giá cao hơn không?… Lần thứ nhất!… Lần thứ hai!… Có vị nào trả giá cao hơn không? Cơ hội cuối cùng!…”
Herschmann không động đậy.
“Lần thứ ba và là lần cuối cùng… Chốt giá!” Người điều hành hô to, đồng thời gõ búa xuống.
“Bốn trăm ngàn.” Herschmann giật nẩy mình kêu lên, như thể tiếng búa đã đánh thức ông ta khỏi trạng thái ngơ ngẩn.
Quá muộn mất rồi, người điều hành không thể thay đổi quyết định. Một số người quen của Herschmann xúm xung quanh ông ta. Có chuyện gì thế? Tại sao ông ta chẳng lên tiếng sớm hơn? Ông ta bật cười, nói: “Mẹ kiếp! Chỉ là tôi bị một khoảnh khắc mất tập trung.”
“Thế thì lạ lùng quá.”
“Ông thấy đấy, tôi vừa nhận được bức thư này.”
“Và bức thư đó đủ để…”
“Tôi mất tập trung! Phải, trong một khoảnh khắc.”
Ganimard có mặt ở đó. Ông ta tới chứng kiến việc bán đấu giá chiếc nhẫn. Ông ta chặn một người trong phòng bán đấu giá lại, hỏi: “Anh chuyển bức thư kia cho ông Herschmann phải không?”
“Vâng.”
“Ai đưa nó cho anh?”
“Một phụ nữ.”
“Cô ta đâu?”
“Cô ta đâu ấy à?… Lúc nãy cô ta ngồi dưới kia kìa… người phụ nữ đeo tấm mạng dày.”
“Cô ta đi rồi ư?”
“Vâng, vừa đi xong.”
Ganimard vội vã ra cửa, trông thấy người phụ nữ đang xuống cầu thang. Ông ta cuống cuồng đuổi theo. Nhưng ông ta bị vướng đám đông ở lối vào tòa nhà. Khi ông ta ra được đến vỉa hè, người phụ nữ đã biến mất. Ông ta quay lại phòng bán đấu giá, xáp lại gần Herschmann, tự giới thiệu mình và đặt câu hỏi về bức thư. Herschmann trao bức thư cho ông ta. Chỉ có vài dòng nguệch ngoạc bằng bút chì, nét chữ xa lạ đối với nhà tư bản:
Viên kim cương xanh luôn luôn đem đến nỗi bất hạnh. Hãy nhớ tới Nam tước d’Hautrec.
Tuy nhiên, những thăng trầm của viên kim cương xanh chưa kết thúc. Mặc dù nó đã trở nên nổi tiếng qua cái chết của Nam tước d’Hautrec và các tình tiết diễn ra ở phòng bán đấu giá, nửa năm sau nó thậm chí còn nổi tiếng hơn nữa. Trong mùa hè tiếp theo đó, nữ Bá tước Crozon bị cướp mất viên kim cương danh tiếng mà bà ta đã phải rất khó khăn mới có được.
Hãy để tôi thuật lại vụ việc ấy, vụ việc với các tình tiết ly kỳ và đầy kịch tính đã khiến tất cả chúng ta rùng mình hồi hộp, mà giờ đây tôi được phép vén bức màn bí mật lên phần nào.
Buổi tối ngày mùng Mười tháng Tám, khách khứa của ông bà Bá tước Crozon tập trung trong phòng khách tòa lâu đài nguy nga trông xuống vịnh Somme. Để khách khứa được tiêu khiển, bà Bá tước tự mình ngồi chơi piano. Trước đó, bà ta tháo tất cả các món trang sức ra, đặt lên chiếc bàn nhỏ kê gần đàn. Trong số các món trang sức có chiếc nhẫn vốn của Nam tước d’Hautrec.
Một tiếng đồng hồ sau, ông Bá tước cùng hầu hết khách khứa rút lui, trong số đó có hai người em họ của ông ta và phu nhân de Réal, bạn thân của bà Bá tước. Bà Bá tước vẫn còn ở lại cùng ông Bleichen – lãnh sự Áo – và vợ ông này.
Họ trò chuyện một lát. Rồi bà Bá tước tắt ngọn đèn lớn đặt trên chiếc bàn kê giữa phòng. Cũng đúng lúc ấy, ông Bleichen tắt hai ngọn đèn đặt trên đàn piano. Bóng tối tạm thời bao phủ. Rồi viên lãnh sự thắp nến lên, và ba người đi về phòng mình. Nhưng, ngay sau khi về đến phòng mình, bà Bá tước nhớ ra các món trang sức, liền sai cô hầu gái đi lấy. Cô hầu gái đem các món trang sức về, đặt lên trên bệ lò sưởi. Tuy nhiên, bà Bá tước không xem xét gì. Ngày hôm sau, bà ta phát hiện ra một chiếc nhẫn đã bị mất, đó là chiếc nhẫn gắn viên kim cương xanh.
Bà ta thông báo với chồng, và, sau khi bàn bạc kĩ lưỡng, họ đi đến kết luận rằng chẳng thể nghi cho cô hầu gái được, mà kẻ phạm tội ắt phải là Bleichen.
Ông Bá tước thông báo với sĩ quan phụ trách đồn cảnh sát tỉnh lỵ Amiens. Cảnh sát bắt đầu mở một cuộc điều tra và kín đáo giám sát chặt chẽ viên lãnh sự Áo, đề phòng ông ta tẩu tán chiếc nhẫn.
Các thám tử giám sát xung quanh tòa lâu đài cả ngày lẫn đêm. Hai tuần trôi qua chẳng có diễn biến gì. Rồi ông Bleichen thông báo ý định ra về. Ngày hôm đó, đơn kiện ông ta chính thức được đệ trình. Cảnh sát chính thức khám xét hành lý của ông ta. Trong chiếc cặp nhỏ mà chìa khóa cặp đích thân viên lãnh sự luôn luôn đem bên mình, người ta tìm thấy một chai thuốc đánh răng, và trong chai, người ta tìm thấy chiếc nhẫn.
Bà Bleichen ngất xỉu. Còn chồng bà ta bị bắt giữ.
Tất cả mọi người sẽ không quên những lời bào chữa của người đàn ông bị buộc tội. Ông ta tuyên bố chiếc nhẫn ắt hẳn đã bị Bá tước Crozon bỏ vào đó để trả thù. Ông ta nói: “Ông Bá tước là kẻ cục súc, khiến cho vợ ông ta rất đỗi bất hạnh. Bà ấy đã tham vấn ý kiến tôi, và tôi khuyên bà ấy hãy ly dị. Bằng cách nào đó, ông Bá tước nghe được chuyện này, và để trả thù, ông ta đã lấy chiếc nhẫn bỏ vào cặp của tôi.”
Vợ chồng ông Bá tước khăng khăng buộc tội ông Bleichen. Những gì họ trình bày, những gì viên lãnh sự trình bày, tất cả nghe đều hợp lý và có khả năng xảy ra như nhau, công chúng phải tự lựa chọn. Người ta không phát hiện được thông tin mới nào khiến cán cân nghiêng đi. Một tháng với bao nhiêu những đồn thổi, phỏng đoán, điều tra, mà chẳng đem lại một tia sáng nào cả.
Mệt mỏi vì căng thẳng và tai tiếng, lại không thể tìm ra những chứng cứ cần thiết để duy trì sự buộc tội đối với viên lãnh sự, vợ chồng ông Bá tước rốt cuộc phải đi Paris mời một thám tử có khả năng tháo gỡ vụ việc bí ẩn đang rối như mớ bòng bong này. Do đó Ganimard xuất hiện.
Trong bốn ngày, viên thám tử kỳ cựu lục soát ngôi nhà từ tầng trên xuống đến tầng dưới, xem xét từng centimet đất, có các cuộc trao đổi dài với cô hầu gái, người lái xe, toán thợ làm vườn, những nhân viên bưu điện quanh vùng, kiểm tra những căn phòng khách khứa từng ở. Rồi, một buổi sáng, ông ta biến mất mà chẳng cáo từ vợ chồng chủ nhà. Nhưng sau đấy một tuần, họ nhận được bức điện với nội dung:
Xin ông bà hãy đến phòng trà Nhật Bản, đường Boissy d’Anglas, ngày mai, thứ Sáu, lúc năm giờ chiều.
GANIMARD
Năm giờ chiều thứ Sáu, chiếc xe hơi của họ dừng trước số 9 đường Boissy d’Anglas. Viên thám tử già đang đứng chờ trên vỉa hè. Chẳng nói chẳng rằng, ông ta đưa họ lên tầng hai của phòng trà Nhật Bản. Tại một căn phòng, họ gặp hai người đàn ông mà Ganimard giới thiệu như sau:
“Đây là ông Gerbois, giảng viên trường Cao đẳng Versailles, ông bà sẽ nhớ ra vụ việc ông ấy bị Arsène Lupin lấy mất nửa triệu. Ông Léonce d’Hautrec, cháu trai, người thừa kế duy nhất của Nam tước d’Hautrec.”
Máy phút sau, một người nữa tới. Đó là Dudouis, Trưởng ban Thám tử, và ông ta có vẻ như đang hết sức bực bội. Ông ta cúi chào, rồi nói: “Nào, lại rắc rối gì, Ganimard? Tôi nhận được lời nhắn qua điện thoại của anh đề nghị tôi tới đây. Có chuyện hệ trọng sao?”
“Vâng, thưa sếp, rất hệ trọng. Trong vòng một tiếng đồng hồ nữa, hai vụ án gần đây nhất mà tôi chịu trách nhiệm giải quyết sẽ kết thúc tại đây. Đối với tôi, xem ra là không thể thiếu sự hiện diện của sếp được.”
“Cả Dieuzy và Folenfant nữa à? Lúc nãy vào, tôi để ý thấy bọn họ đang đứng loanh quanh gần cửa.”
“Vâng, thưa sếp.”
“Để làm gì? Anh chuẩn bị tiến hành một cuộc bắt giữ à, và anh muốn trống giong cờ mở làm việc đó? Nào, Ganimard, tôi nóng lòng được nghe anh trình bày đây.”
Ganimard lưỡng lự một chút, rồi nói với mục đích rõ ràng là để gây ấn tượng cho đám thính giả của mình: “Đầu tiên, tôi muốn tuyên bố rằng ông Bleichen không liên quan gì tới việc kẻ nào đó đã đánh cắp chiếc nhẫn.”
“Ồ! Ồ!” Dudouis thốt lên. “Đây là một tuyên bố táo bạo và là một tuyên bố hết sức nghiêm trọng.”
“Và ông chỉ khám phá ra có thế thôi?” Bá tước Crozon hỏi.
“Hoàn toàn chẳng phải là chỉ có thế. Ngày thứ hai sau vụ trộm, ba trong số những người khách của ông đã đi bằng xe hơi tới tận Crécy. Hai người trong số bọn họ đến tham quan bãi chiến trường nổi tiếng, người thứ ba vội vã ghé bưu điện, gửi đi một chiếc hộp nhỏ có cột dây và gắn xi theo như quy định, với giá trị được khai là một trăm franc.”
“Tôi không thấy điều gì lạ lùng cả.” Ông Bá tước nói.
“Ông có lẽ sẽ thấy lạ lùng khi tôi bảo để ông biết rằng người thứ ba này, thay vì dùng tên thật của cô ta, đã gửi chiếc hộp đi dưới cái tên Rousseau, và người nhận, một ông Beloux nào đó ở Paris, đã ngay lập tức thay đổi nơi cư trú sau khi nhận được chiếc hộp, hay nói cách khác, sau khi nhận được chiếc nhẫn.”
“Tôi cho là ông ám chỉ một trong hai người em họ tôi, d’Andelle.”
“Không. Ganimard đáp.
“Thế thì, phu nhân de Réal chăng?”
“Phải.”
“Ông buộc tội bạn tôi, phu nhân de Réal?” Bà Bá tước kêu lên, sửng sốt, bàng hoàng.
“Thưa bà, tôi muốn được hỏi bà một câu.” Ganimard nói. “Phu nhân de Réal có mặt khi bà mua chiếc nhẫn không?”
“Có, có điều chúng tôi không đi với nhau.”
“Cô ta có khuyên bà mua chiếc nhẫn không?”
Bà Bá tước nghĩ ngợi một lát, rồi nói: “Phải, cô ấy là người đề cập tới trước…”
“Thưa bà, cảm ơn bà. Câu trả lời của bà đã xác nhận thực tế phu nhân de Réal là người đề cập tới chiếc nhẫn trước, và là người khuyên bà mua.”
“Nhưng, theo tôi đánh giá, bạn tôi hoàn toàn không thể… có khả năng mua.”
“Xin lỗi, thưa bà Bá tước, tôi xin phép nhắc nhở bà rằng, theo thông tin báo chí đăng tải, phu nhân de Réal chỉ là một người quen sơ sơ chứ chẳng phải một người bạn thân thiết của bà. Mùa đông năm ngoái bà mới gặp cô ta lần đầu tiên. Bây giờ, tôi có thể chứng minh mọi điều cô ta nói với bà về bản thân cô ta, về cuộc sống đã qua, về họ hàng này kia, đều hoàn toàn là giả dối. Phu nhân Blanche de Réal thực tế không tồn tại trước khi gặp bà và giờ đây cũng không còn tồn tại nữa.”
“Ôi chao!”
“Ôi chao?” Ganimard đáp lại.
“Câu chuyện của ông là câu chuyện rất lạ lùng.” Bà Bá tước nói. “Nhưng nó chẳng gắn kết với vụ việc của chúng tôi. Nếu phu nhân de Réal là người đánh cắp chiếc nhẫn, ông giải thích thế nào cái thực tế nó được tìm thấy trong chai thuốc đánh răng của ông Bleichen? Bất cứ kẻ nào đã hao tâm tổn trí liều lĩnh đánh cắp viên kim cương xanh chắc chắn sẽ giữ nó. Ông nói gì về việc đó?”
“Không phải tôi mà là phu nhân de Réal sẽ trả lời câu hỏi này.”
“Ô! Thế thì cô ấy có tồn tại đấy chứ!”
“Cô ta vừa có vừa không tồn tại. Tôi sẽ giải thích ngắn gọn. Ba ngày trước, trong khi đọc báo, tôi liếc sơ qua danh sách khách tới nghỉ ở các khách sạn vùng Trouville, và tôi đọc được dòng chữ: Khách sạn Beaurivage, phu nhân de Réal… Tôi ngay lập tức đi Trouville, phỏng vấn người chủ khách sạn. Từ lời mô tả và những thông tin khác mà người chủ khách sạn cung cấp, tôi kết luận rằng cô ta đích thị là phu nhân de Réal tôi đang tìm kiếm. Nhưng cô ta đã rời khỏi đấy rồi, cô ta khai địa chỉ ở Paris là số 3 đường Colisée. Hôm kia, tôi đến địa chỉ đó, được biết không có người nào là phu nhân de Réal, nhưng có một người là cô Réal, sống trên tầng ba, làm nghề môi giới kim cương, thường xuyên đi vắng. Cô ta vừa về đêm hôm trước. Hôm qua, tôi gọi điện cho cô ta, và, bằng tên giả, tôi đề nghị cô ta làm trung gian bán kim cương cho mấy người bạn giàu có của tôi. Cô ta sẽ đến đây gặp tôi hôm nay.”
“Cái gì? Ông nghĩ cô ta sẽ đến?”
“Vâng, lúc năm rưỡi.”
“Ông chắc chắn đó là cô ta chứ?”
“Phu nhân de Réal đã có mặt tại lâu đài Crozon ấy à? Đương nhiên. Tôi nắm trong tay những chứng cứ đầy thuyết phục. Nhưng, yên nào! Tôi nghe thấy tín hiệu của Folenfant.”
Có tiếng huýt sáo. Ganimard vội vã đứng dậy.
“Hành động thôi nào. Ông bà Crozon, làm ơn sang phòng bên cạnh. Cả ông, ông d’Hautrec và ông, ông Gerbois. Cửa thông phòng sẽ vẫn mở, khi tôi đánh tín hiệu, các vị hãy bước ra. Còn sếp, sếp tất nhiên sẽ ở lại ngoài này.”
“Chúng ta có thể bị những khách khác quấy rầy.” Dudouis nói.
“Không. Phòng trà này mới mở, và chủ phòng trà là bạn tôi. Ông ấy sẽ không để cho ai quấy rầy chúng ta, trừ Tiểu thư Tóc vàng.”
“Tiểu thư Tóc vàng! Ý anh là gì?”
“Phải, chính Tiểu thư Tóc vàng, thưa sếp, vừa là bạn vừa là tòng phạm của Arsène Lupin, Tiểu thư Tóc vàng bí ẩn mà tôi đang nắm trong tay những chứng cứ thuyết phục, nhưng, thêm vào đó, tôi muốn cô ta phải đối chất với tất cả những người đã bị cô ta ăn cướp.”
Ganimard nhìn ra qua cửa sổ.
“Tôi trông thấy cô ta rồi. Bây giờ cô ta đang đi qua cửa. Cô ta sẽ không tẩu thoát được, Folenfant và Dieuzy đang gác ngoài cửa… Thưa sếp, rốt cuộc thì Tiểu thư Tóc vàng sẽ bị bắt!”
Lát sau, một phụ nữ xuất hiện ở trên ngưỡng cửa. Cô ta cao dong dỏng, da trắng nõn nà, tóc vàng óng ả. Ganimard run lên phấn khích. Ông ta chẳng thể nhúc nhích, cũng chẳng thất được lời nào. Cô ta kia, trước mặt ông ta, tùy thuộc ông ta định đoạt! Một chiến thắng mới ngoạn mục làm sao! Một sự trả thù mới xứng đáng làm sao! Đồng thời, chiến thắng đó cũng dễ dàng tới mức ông ta tự hỏi liệu Tiểu thư Tóc vàng có lại tuột khỏi những ngón tay ông ta bằng một trong các phép màu vốn vẫn thường xuyên xuất hiện để kết thúc mỗi kỳ tích táo bạo của Arsène Lupin? Cô ta chưa bước ra xa khỏi cửa, ngạc nhiên vì chẳng ai nói gì. Cô ta đưa mắt nhìn xung quanh, không hề tỏ vẻ nghi ngờ hay e sợ.
“Cô ta sẽ trốn thoát này! Cô ta sẽ biến mất này!” Ganimard nghĩ.
Rồi ông ta cố gắng đứng được vào giữa cô ta và cửa. Cô ta quay người bỏ đi.
“Không, không!” Ganimard nói. “Tại sao cô bỏ đi?”
“Thưa ông, tôi thực sự không hiểu thế này nghĩa là thế nào. Tôi xin phép.”
“Thưa cô, không có lý do gì khiến cô phải bỏ đi, và có những lý do rất xác đáng để cô phải ở lại.”
“Nhưng…”
“Vô ích thôi, thưa cô. Cô không đi được.”
Cô ta run rẩy ngồi xuống chiếc ghế dựa, lắp bắp: “Ông muốn gì?”
Ganimard đã thắng trận và bắt được Tiểu thư Tóc vàng. Ông ta nói: “Tôi xin phép giới thiệu người bạn lúc trước tôi nhắc tới, người có ý muốn mua vài viên kim cương. Cô có đem đến số kim cương cô hẹn đem…”
“Không… không, tôi không biết. Tôi không nhớ gì.”
“Nào! Cô xốc lại trí nhớ đi! Một người quen của cô có ý định gửi cho cô một viên đá màu… Một viên đá giống viên kim cương xanh. Tôi vừa cười to vừa nói. Và cô đáp: Chính xác, tôi hy vọng nhận được đúng thứ ông muốn. Cô nhớ chứ?”
Cô ta không trả lời. Chiếc túi nhỏ cô ta đang cầm rơi xuống đất. Cô ta hấp tấp nhặt lên, giữ chặt lấy nó. Hai bàn tay cô ta run run.
“Nào!” Ganimard nói. “Tôi thấy là cô không tin tưởng chúng tôi, phu nhân de Réal. Tôi sẽ làm gương trước, bằng cách cho cô xem tôi có gì.”
Ganimard lấy từ ví của ông ta ra một gói giấy, mở gói giấy, để lộ một món tóc.
“Đây là món tóc bị Nam tước d’Hautrec giật khỏi đầu Antoinette Bréhat, mà tôi đã phát hiện được trong bàn tay nắm chặt của cái xác. Tôi đã đưa nó cho cô Gerbois xem, cô ấy khẳng định màu của nó giống hệt màu tóc của Tiểu thư Tóc vàng. Hơn nữa, màu của nó giống hệt màu tóc của cô.”
Cô Réal hoang mang nhìn Ganimard, như thể không hiểu nổi ông ta đang muốn nói gì. Ông ta tiếp tục: “Và đây là hai lọ nước hoa, tuy chẳng còn nhãn cũng như chẳng còn tí nước hoa nào, nhưng hương thơm trong lọ vẫn đủ để cô Gerbois nhận ra đó là loại nước hoa Tiểu thư Tóc vàng, bạn đồng hành của cô ấy trong hai tuần lễ, đã dùng. Một trong hai cái lọ này được tìm thấy trong căn phòng dành cho phu nhân de Réal tại lâu đài Crozon, lọ kia được tìm thấy trong căn phòng cô lưu lại tại khách sạn Beaurivage.”
“Ông bảo sao cơ ạ?… Tiểu thư Tóc vàng… lâu đài Crozon…”
Viên thám tử không trả lời. Ông ta lấy từ túi áo khoác ra và đặt lên trên bàn bốn tờ giấy nhỏ, tờ nọ cạnh tờ kia.
“Tôi có ở đây, trên bốn tờ giấy này, các mẫu chữ viết tay khác nhau. Thứ nhất là chữ viết tay của Antoinette Bréhat. Thứ hai là chữ của người phụ nữ đã gửi lời nhắn cho ông Herschmann tại buổi bán đấu giá viên kim cương xanh. Thứ ba là chữ của phu nhân de Réal, viết trong khi lưu lại tại lâu đài Crozon. Thứ tư là chữ của cô, thưa cô… ghi tên và địa chỉ của cô, mà cô đưa cho người phu khuân vác ở khách sạn Beaurivage. Bây giờ, hãy so sánh bốn mẫu chữ viết tay này. Chúng giống hệt nhau.”
“Chuyện vô lý gì vậy? Thưa ông, tôi thực sự không hiểu. Thể này nghĩa là thế nào ạ?”
“Thưa cô!” Ganimard thốt lên. “Nó có nghĩa là Tiểu thư Tóc vàng, người vừa là bạn vừa là tòng phạm của Arsène Lupin, chẳng phải ai khác ngoài cô, cô Réal ạ.”
Ganimard sang căn phòng bên cạnh và trở lại cùng ông Gerbois. Ông ta đưa ông Gerbois tới trước mặt cô Réal, nói: “Ông Gerbois, đây có phải người phụ nữ đã bắt cóc con gái ông, người phụ nữ ông đã gặp tại nhà ông Detinan không?”
“Không.”
Ganimard ngạc nhiên tới mức mất một lúc không thốt được lời nào. Rốt cuộc, ông ta nói: “Không ư? Ông nhầm rồi.”
“Tôi không nhầm. Cô đây tóc vàng, đúng thế, và về mặt đó thì giống với Tiểu thư Tóc vàng, nhưng về tất cả các mặt khác thì cô ấy hoàn toàn chẳng giống.”
“Tôi chẳng tài nào mà tin được. Ông hẳn nhầm rồi.” Ganimard mời các nhân chứng khác ra.
“Ông d’Hautrec.” Ông ta nói. “Ông có nhận ra Antoinette Bréhat không?”
“Không, người này không phải người tôi đã gặp ở nhà bác tôi.”
“Người phụ nữ này không phải phu nhân de Réal.” Bá tước Crozon khẳng định.
Đó là phép thử cuối cùng. Ganimard bị đè bẹp, bị chôn vùi trong chính đống đổ nát của cái công trình mà ông ta đã dựng lên với biết bao nhiêu chắc chắn và cẩn trọng. Sự kiêu hãnh ở ông ta bị hạ nhục, tinh thần ông ta suy sụp, bởi sức mạnh của cú đấm bất ngờ này.
Dudouis đứng dậy, nói: “Thưa cô, chúng tôi xin lỗi cô vì sự nhầm lẫn đáng tiếc. Nhưng, kể từ lúc cô đến đây, tôi để ý thấy rằng cô ở trong tâm trạng bối rối, căng thẳng. Có chuyện gì đó làm cô lo lắng, liệu tôi có thể hỏi là chuyện gì không?”
“Trời ơi, thưa ông, tôi sợ. Tôi đem theo trong chiếc túi này số kim cương trị giá một trăm ngàn franc, mà cung cách của người bạn ông khá đáng ngờ.”
“Nhưng cô thường xuyên đi vắng khỏi Paris. Cô giải thích việc đó ra sao?”
“Tôi thường xuyên đến các thành phố khác vì chuyện làm ăn buôn bán. Vậy thôi.”
Dudouis chẳng còn gì để hỏi nữa. Ông ta quay sang thuộc cấp, nói: “Ganimard, việc điều tra của anh rất thiển cận, và cách anh đối xử với cô đây thực sự đáng trách. Ngày mai, anh hãy tới văn phòng tôi giải thích nhé.”
Cuộc thẩm vấn kết thúc, Dudouis đang chuẩn bị rời khỏi phòng thì một tình huống rất đáng khó chịu xảy ra.
Cô Réal quay sang Ganimard, nói: “Theo tôi hiểu, ông là ông Ganimard. Có đúng không ạ?”
“Vâng.”
“Thế thì, bức thư này ắt hẳn gửi cho ông. Sáng hôm nay tôi nhận được nó. Phong bì đề Gửi ông Justin Ganimard, nhờ cô Réal chuyển giúp. Tôi đã nghĩ nó là một trò đùa, vì tôi không biết ông mang tên đó, nhưng có vẻ người viết thư ẩn danh biết cuộc gặp gỡ giữa chúng ta.”
Ganimard có ý muốn nhét bức thư vào túi áo, chưa đọc vội. Tuy nhiên, ông ta chẳng dám làm vậy trước sự hiện diện của cấp trên. Nên ông ta đành mở phong bì, lấy bức thư ra đọc thành tiếng, nhưng giọng lí nhí gần như không nghe được:
Ngày xửa ngày xưa, có một Tiểu thư Tóc vàng, một Lupin và một Ganimard. Lúc bấy giờ, Ganimard xấu xa luôn luôn có các ý đồ độc ác đối với Tiểu thư Tóc vàng, còn Lupin tốt bụng là bạn và là người che chở, bảo vệ hàng. Khi Lupin tốt bụng ước mong nàng trở thành bạn của nữ Bá tước Crozon, chàng khoác cái tên phu nhân de Réal lên nàng, nghe gần giống tên một phụ nữ làm nghề môi giới kim cương, một phụ nữ cũng da trắng tóc vàng. Và Lupin tốt bụng tự nhủ: Nếu Ganimard xấu xa có lần theo được dấu vết Tiểu thư Tóc vàng, sẽ hữu ích nếu lão bị hướng sang người phụ nữ làm nghề môi giới kim cương lương thiện kia. Sự đề phòng khôn ngoan đã mang lại kết quả như mong đợi. Vài dòng ngắn ngủi gửi tới tờ báo Ganimard xấu xa hay đọc, lọ nước hoa được Tiểu thư Tóc vàng đích thực cố ý bỏ quên trong khách sạn Beauricage, tên và địa chỉ của cô Réal được Tiểu thư Tóc vàng đích thực ghi vào sổ của khách sạn, những lá bài được ném xuống. Ganimard, lão nghĩ gì về các chi tiết ấy? Ta muốn nói với lão chân tướng của vụ việc, biết rằng lão sẽ là người đầu tiên phá ra cười. Thực tế, nó hết sức buồn cười, mà ta đã cảm thấy rất thích thú.
Bạn thân mến, hãy nhận lấy lời chúc tốt đẹp nhất của ta, và cho ta gửi lời chào trân trọng tới ngài Dudouis đáng kính.
ARSÈNE LUPIN
“Hắn luôn luôn biết tất cả.” Ganimard lầm bầm, có điều ông ta không thấy buồn cười như Lupin dự đoán. “Hắn thậm chí biết những điều tôi chưa bao giờ nói với ai. Bằng cách nào mà hắn biết tôi sẽ mời sếp đến đây, hả sếp? Bằng cách nào mà hắn biết tôi đã phát hiện ra lọ nước hoa thứ nhất? Bằng cách nào mà hắn tìm hiểu được những thông tin kia?”
Ganimard giậm chân, vò đầu bứt tóc trong nỗi thất vọng tràn trề. Dudouis cảm thấy tội nghiệp cho ông ta, nói: “Thôi, Ganimard, không hề gì. Lần sau hãy cố gắng làm tốt hơn.”
Rồi Dudouis cùng cô Réal rời khỏi phòng.
Trong vòng mười phút tiếp theo, Ganimard đọc đi đọc lại bức thư của Arsène Lupin. Vợ chồng Bá tước Crozon, ông d’Hautrec và ông Gerbois thì sôi nổi bàn bạc ở một góc. Cuối cùng, ông Bá tước tiến đến chỗ viên thám tử, nói: “Thưa ông kính mến, sau cuộc điều tra của ông, chúng ta vẫn chưa tiến đến gần sự thật hơn lúc trước.”
“Xin lỗi, nhưng cuộc điều tra của tôi đã xác minh những điều sau: Tiểu thư Tóc vàng là nhân vật nữ chính bí ẩn trong các vụ việc này, và Arsène Lupin là kẻ đạo diễn.”
“Những thực tế đó chẳng làm sáng tỏ được gì. Thực tế, chúng khiến tình hình còn trở nên mù mịt hơn. Tiểu thư Tóc vàng giết người nhằm đoạt lấy viên kim cương xanh, tuy nhiên cô ta lại chưa đoạt lấy nó. Tiếp theo, cô ta đánh cắp nó, rồi lại từ bỏ nó bằng cách bí mật đưa cho một đối tượng khác. Ông giải thích cách hành xử lạ lùng của cô ta như thế nào?”
“Tôi không giải thích được.”
“Đương nhiên. Nhưng, có lẽ, một người khác có thể giải thích được.”
“Ai?”
Ông Bá tước còn do dự, nên bà Bá tước thẳng thắn đáp: “Ngoài ông, chỉ có duy nhất một người có thể bước lên vũ đài đấu với Arsène Lupin và chiến thắng hắn. Liệu ông có phản đối việc chúng tôi mời Herlock Sholmès tham gia vào vụ án này không?”
Câu hỏi khiến Ganimard phật ý, nhưng ông ta cũng đành lắp bắp đáp: “Không… chỉ có điều… tôi không hiểu…”
“Để tôi giải thích. Tôi rất khó chịu trước toàn bộ sự bí ẩn này. Tôi muốn nó được làm sáng tỏ. Ông Gerbois và ông d’Hautrec cũng muốn thế. Chúng tôi thống nhất mời viên thám tử Anh quốc danh tiếng lẫy lừng kia.”
“Thưa bà, bà đã đúng.” Ganimard đáp, với sự trung kiên khiến ông ta xứng đáng được tôn trọng. “Bà đã đúng. Ganimard già nua không chiến thắng Arsène Lupin được. Nhưng liệu Herlock Sholmès có chiến thắng được không? Tôi hy vọng vào điều này, vì tôi vốn vẫn hết sức ngưỡng mộ ông ấy. Tuy nhiên… điều này là bất khả.”
“Ông muốn nói ông ấy sẽ thất bại ư?”
“Đó là ý kiến của tôi. Tôi có thể thấy trước kết quả cuộc đấu tay đôi giữa Herlock Sholmès và Arsène Lupin. Viên thám tử Anh quốc sẽ thua trận.”
“Nhưng dù gì thì chúng tôi cũng vẫn trông cậy được vào sự giúp đỡ của ông chứ?”
“Đúng thế, thưa bà. Tôi sẽ sẵn lòng hỗ trợ ông Sholmès bằng mọi cách có thể.”
“Ông biết địa chỉ của ông ấy chứ?”
“Vâng, số 219 phố Parker.”
Buổi chiều hôm đó, ông bà Crozon rút lại lời buộc tội đối với ông Bleichen, và một bức thư chung được gửi đi cho Herlock Sholmès.
Chú thích:
-C. Auguste Dupin: Nhân vật thám tử do nhà văn, nhà thơ Mỹ Edgar Allan Poe (1809-1849) sáng tạo nên.
-Monsieur Lecoq: Nhân vật thanh tra cảnh sát do nhà văn Pháp Émile Gaboriau (1832-1873) sáng tạo nên.