Chương 3 Herlock Sholmès khai chiến-
Thưa, ông muốn gọi gì?”
“Gì cũng được.” Arsène Lupin đáp, như một kẻ không bao giờ băn khoăn đến tiểu tiết của bữa ăn. “Anh muốn mang ra gì cũng được, trừ thịt với rượu.”
Người bồi bàn khinh khỉnh bước đi.
“Cái gì? Vẫn ăn chay sao?” Tôi kêu lên.
“Hơn bao giờ hết.” Lupin đáp.
“Vì sở thích, niềm tin, hay thói quen?”
“Vì vấn đề vệ sinh.”
“Anh không bao giờ phá lệ à?”
“Ô! Có chứ… khi tôi đang ăn tối ở nhà hàng… và muốn tránh bị coi là kẻ kỳ cục.”
Chúng tôi ăn tối gần ga Xe lửa miền Bắc, tại một nhà hàng do Arsène Lupin chọn mời tôi. Thường thường, anh ta sẽ đánh điện hẹn tôi tới gặp tại một nhà hàng không mấy tiếng tăm nào đấy, nơi chúng tôi có thể thưởng thức một bữa tối êm ả, được phục vụ chu đáo, và luôn luôn thú vị vì tôi sẽ được nghe anh ta thuật lại một câu chuyện phiêu lưu nào đấy tôi chưa được nghe bao giờ.
Vào buổi tối đặc biệt đó, anh ta tỏ ra sôi nổi hoạt bát hơn bình thường. Anh ta cười to và đùa bỡn với sự hào hứng vô tư lự, với sự mỉa mai tinh tế quen thuộc ở anh ta, một sự mỉa mai nhẹ nhàng, tự nhiên, hoàn toàn không có chút ác độc gì cả. Thật thích thú được thấy anh ta đang trong những lúc vui vẻ như thế, và tôi không cưỡng lại nổi ý muốn nói với anh ta điều này.
“À! Phải.” Anh ta thốt lên. “Có những ngày tôi thấy cuộc đời tươi tắn rạng rỡ y như buổi sáng mùa xuân, lúc ấy thì cuộc đời đối với tôi xem ra là một kho báu vô tận tôi không bao giờ xài hết. Tuy nhiên, Chúa biết tôi vốn sống bất cẩn!”
“Có lẽ là quá bất cẩn.”
“A! Nhưng tôi bảo cho anh biết, cái kho báu ấy là vô tận. Tôi có thể phung phí nó. Tôi có thể vung tuổi trẻ và sức mạnh của tôi vào bốn phương trời mười phương đất, để rồi tôi lại được trẻ trung hơn, mạnh mẽ hơn. Chưa kể là cuộc sống của tôi thú vị như thế!… Nếu ước ao, tôi có thể ước ao trở thành một người như thế nào?… Nhà hùng biện, nhà sản xuất, hay chính trị gia… Nhưng, tôi xin cam đoan với anh, tôi sẽ chẳng bao giờ có một ao ước như vậy. Arsène Lupin, đó là tôi. Arsène Lupin, đó luôn luôn là tôi. Tôi đã tìm kiếm mà tìm kiếm không ra trong lịch sử một cái nghề bì được với cái nghề của tôi, một cuộc sống mãnh liệt hơn, phong phú hơn. Napoléon ư? Vâng, có lẽ… Nhưng Napoléon, khi sự nghiệp của ông ta đã sắp sửa đi đến hồi kết, khi cả châu Âu đang cố gắng tiêu diệt ông ta, vào buổi đêm trước mỗi trận đánh, ông ta đều tự hỏi mình rằng liệu đây có phải là trận đánh cuối cùng của mình hay không.”
Anh ta đang nghiêm túc chăng? Hay anh ta đang đùa cợt?
Anh ta càng nói lại càng hăng hái. “Sự nguy hiểm, anh có hiểu không, nó là tất cả mọi thứ xung quanh mình. Cái cảm giác thường xuyên, liên tục về sự nguy hiểm! Khi anh hít lấy không khí, anh hít lấy nó, anh đánh hơi thấy nó trong mỗi một cơn gió nhẹ thoảng qua, anh phát hiện ra nó trong mỗi một tiếng động lạ khác thường. Và, ở giữa cuồng phong, vẫn phải bình tĩnh, đừng nghiêng ngả loạng choạng. Bằng không, anh thua. Trên đời này, duy nhất một cảm giác có thể so sánh được với cái cảm giác ấy: Đó là cảm giác của người lái xe trong một cuộc đua xe hơi. Nhưng một cuộc đua xe hơi chỉ kéo dài vài tiếng đồng hồ, còn cuộc đua của tôi kéo dài cho tới lúc chết!”
“Hình ảnh mới ấn tượng làm sao!” Tôi kêu lên. “Và anh muốn tôi cho là anh không có lý do đặc biệt gì để lựa chọn cuộc đời đầy hứng thú ấy?”
“Nào.” Anh ta mỉm cười, nói. “Anh là nhà tâm lý học khôn ngoan. Anh hãy tự tìm hiểu lấy.”
Anh ta rót cho mình một cốc nước, uống hết, rồi nói: “Anh đọc tờ Thời đại số ra ngày hôm nay chưa?”
“Chưa.”
“Herlock Sholmès đã vượt eo biển Manche hồi chiều, và đã đến Paris khoảng chừng lúc sáu giờ.”
“Quỷ tha ma bắt! Ông ta đến với mục đích gì?”
“Một chuyến đi ngắn ngủi theo lời đề nghị của ông bà Bá tước Crozon, ông Gerbois và cháu trai Nam tước d’Hautrec. Bọn họ gặp ông ta tại ga Xe lửa miền Bắc, đưa ông ta tới gặp Ganimard, và, vào lúc này, sáu người bọn họ đang hội ý với nhau đấy.”
Mặc dù thâm tâm cực kỳ muốn, tôi chưa từng dám đánh bạo chất vấn Arsène Lupin về bất cứ hoạt động gì trong cuộc sống riêng của anh ta, trừ phi anh ta tự đề cập tới trước. Cho tới lúc bấy giờ, tên anh ta chưa bị gắn với vụ viên kim cương xanh, ít ra là một cách chính thức. Do đó, tôi đành kiên nhẫn nén sự tò mò lại. Anh ta tiếp tục nói: “Tờ Thời đại còn đăng bài phỏng vấn ông bạn Ganimard thân mến của tôi, mà theo ông ta thì một Tiểu thư Tóc vàng nào đó, bạn bè của tôi, hẳn là đã sát hại Nam tước d’Hautrec cũng như đã cố gắng ăn cướp chiếc nhẫn nổi tiếng từ bà Crozon. Anh nghĩ sao? Ông ta buộc tội tôi đã chủ mưu thực hiện những vụ án ấy!”
Tôi chẳng thể kìm lại một thoáng rùng mình. Đó có phải là sự thực không? Liệu tôi có bắt buộc phải nghĩ cái nghề trộm đạo của anh ta, cái phong cách sống của anh ta, cái kết quả logic của một cuộc đời như thế, đã đẩy người đàn ông này vào những tội ác nghiêm trọng hơn, bao gồm cả giết người? Tôi nhìn anh ta. Anh ta thật là điềm tĩnh, và ánh mắt anh ta thật là bộc trực! Tôi quan sát đôi bàn tay anh ta: Đôi bàn tay được tạo thành từ một chiếc khuôn quá đỗi thanh tú, những ngón tay thon dài, chẳng thể làm hại ai, thật thế… đôi bàn tay của một nghệ sĩ.
“Ganimard cứ có các ý nghĩ hoang đường.” Tôi nói.
“Không, không!” Lupin phản đối. “Ganimard cũng thông minh, và, đôi khi, cũng gần như mang lại cảm hứng.”
“Mang lại cảm hứng!”
“Vâng. Ví dụ, bài trả lời phỏng vấn là một chiến thuật tài tình. Thứ nhất, ông ta thông báo việc đối thủ người Anh của ông ta sang đây nhằm mục đích để tôi sẵn sàng cảnh giác và để nhiệm vụ được giao vào tay đối thủ của Sholmès trở nên khó khăn hơn. Thứ hai, ông ta chỉ ra chính xác ông ta đã giải quyết công việc được đến đâu rồi, để Sholmès không thể nhận tiếng tốt cho những gì Ganimard làm. Đó là sự tận dụng cơ hội hiệu quả trong một cuộc chiến.”
“Bất luận thế nào, anh cũng phải đương đầu với hai kẻ thù, mà hai kẻ thù mới nguy hiểm làm sao chứ?”
“Ồ! Một trong hai kẻ chẳng đáng quan tâm.”
“Còn kẻ kia?”
“Sholmès ư? Ồ! Tôi xin thú thực rằng ông ta là một đối thủ xứng đáng đấy, và nó giải thích cho tâm trạng vui vẻ của tôi lúc này. Thứ nhất, đó là vấn đề tự trọng, tôi hài lòng thấy bọn họ coi tôi là đối tượng xứng đáng để viên thám tử Anh quốc danh tiếng lẫy lừng phải quan tâm. Tiếp theo, hãy hình dung xem một người như tôi cảm thấy thích thú thế nào trước ý nghĩ được đấu tay đôi với Herlock Sholmès. Nhưng tôi sẽ phải chiến đấu hết sức mình, ông ta tài giỏi và sẽ quyết liệt giành từng tấc đất đấy.”
“Vậy anh coi ông ta là đối thủ nặng ký?”
“Phải. Tôi nghĩ, với vai trò một thám tử, ông ta chưa gặp ai ngang sức ngang tài bao giờ. Nhưng tôi có lợi thế hơn ông ta, ông ta là người tấn công, còn tôi thì chỉ tự vệ. Nhiệm vụ của tôi dễ dàng hơn. Vả lại, cách đánh của ông ta đối với tôi đã quen thuộc, trong khi ông ta chưa biết cách đánh của tôi. Tôi sẽ sẵn sàng giở ra vài thủ đoạn mới, để đầu óc ông ta có việc mà làm.”
Anh ta vừa khe khẽ gõ những ngón tay lên bàn vừa nói mấy câu sau đây với vẻ cực kỳ thích thú: “Arsène Lupin đấu với Herlock Sholmès… Nước Pháp đấu với nước Anh… Rốt cuộc, trận Trafalgar⦾ sẽ được phục thù… A! Lão đáng ghét… lão chẳng ngờ ta đã chuẩn bị tinh thần… một Lupin đã có sự đề phòng…”
Anh ta đột ngột ngừng lại, ho rũ rượi một cơn. Anh ta lấy chiếc khăn ăn che mặt, như thể có cái gì đó tắc trong cổ họng anh ta.
“Nghẹn bánh mì à?” Tôi hỏi. “Uống chút nước xem.”
“Không, không phải.” Anh ta đáp, giọng nghẹt nghẹt. “Vậy là làm sao?”
“Thiếu không khí.”
“Anh muốn mở cửa sổ không?”
“Không, tôi ra ngoài đây. Đưa cho tôi mũ và áo khoác, nhanh lên! Tôi phải đi.”
“Có vấn đề gì thế?”
“Hai người vừa vào đây… Hãy nhìn cái người cao hơn ấy… Bây giờ, khi chúng ta đi ra ngoài, hãy nhớ đi bên tay trái tôi, để ông ta không trông thấy tôi.”
“Cái người ngồi đằng sau anh ư?”
“Phải. Tôi sẽ giải thích với anh, ngoài kia.”
“Ai thế?”
“Herlock Sholmès.”
Anh ta phải cố gắng lắm để giữ sự tự chủ, như thể anh ta xấu hổ vì đã quá xúc động. Anh ta đặt chiếc khăn ăn lại chỗ cũ, uống một cốc nước, và sau khi đã hoàn toàn trấn tĩnh, anh ta mỉm cười nói với tôi: “Thật lạ là tôi lại dễ dàng bị xúc động đến thế, nhưng việc bất ngờ trông thấy ông ta…”
“Anh có gì mà phải sợ? Chẳng ai nhận ra anh được, vì anh thay hình đổi dạng luôn luôn. Mỗi lần tôi gặp anh, tôi thấy gương mặt anh dường như lại khác, chẳng quen thuộc chút nào. Tôi không biết tại sao anh sợ.”
“Nhưng ông ta sẽ nhận ra tôi.” Lupin nói. “Ông ta mới gặp tôi duy nhất một lần. Tuy nhiên, lần đó, ông ta đã chụp ảnh tôi trong đầu, không phải chụp hình thức bên ngoài của tôi mà là chính phần hồn của tôi ấy, không phải những gì tôi tỏ ra mà là chính con người tôi. Anh có hiểu không? Và rồi… và rồi… tôi đâu có nghĩ sẽ gặp ông ta tại đây… Một cuộc chạm trán mới lạ lùng làm sao!… Trong cái nhà hàng bé nhỏ này…”
“Chà, chúng ta ra ngoài nhé?”
“Chưa, chưa phải bây giờ.” Lupin nói.
“Anh đang định làm gì?”
“Tốt hơn hết là hành động một cách thẳng thắn… tin tưởng ở ông ta… trông cậy vào ông ta…”
“Anh sẽ không nói chuyện với ông ta chứ?”
“Tại sao không? Như thế sẽ đem đến thuận lợi cho tôi, tìm hiểu xem ông ta biết gì, và có lẽ cả việc ông ta nghĩ gì. Lúc này, tôi cảm thấy ông ta đang chăm chăm nhìn vào gáy và vai tôi, ông ta đang cố gắng nhớ xem ông ta từng trông thấy chúng ở đâu rồi.”
Anh ta nghĩ ngợi một lát. Tôi quan sát khóe môi anh ta nhếch một cái cười hiểm độc, rồi, tôi nghĩ vì một ý thích bất chợt xuất phát từ bản tính bốc đồng chứ chẳng phải vì hoàn cảnh bắt buộc, anh ta đứng dậy, xoay người lại, cúi chào với điệu bộ vui mừng, nói: “Sự tình cờ may mắn nào đây? Ôi! Tôi sung sướng quá vì được gặp ông. Cho phép tôi giới thiệu một người bạn của tôi.”
Viên thám tử Anh quốc thoáng bối rối, rồi ông ta có cử chỉ y như định tóm lấy Arsène Lupin. Anh ta lắc đầu, nói: “Như thế sẽ không công bằng. Hơn nữa, hành động đó sẽ là một hành động vụng về… và hoàn toàn vô ích.”
Viên thám tử Anh quốc nhìn xung quanh, tựa như muốn tìm kiếm sự giúp đỡ.
“Vô ích.” Lupin nói. “Vả lại, ông có hoàn toàn chắc chắn rằng ông đặt được tay vào người tôi không? Thôi nào, hãy cho tôi thấy ông đích thị là người Anh, và do đó, là người có tinh thần độ lượng.”
Xem ra viên thám tử chấp nhận lời khuyên này, vì ông ta hơi nhỏm dậy, nói một cách rất trịnh trọng: “Đây là ông Wilson, vừa là bạn vừa là trợ lý của tôi… Còn đây là ông Arsène Lupin.”
Sự kinh ngạc của Wilson khiến mọi người cười vang. Trố mắt há mồm, ông ta nhìn từ người này sang người kia, như thể chẳng tài nào hiểu nổi tình huống đó. Herlock Sholmès cười to, nói: “Wilson, anh nên che giấu nỗi kinh ngạc của anh trước một sự việc nằm trong số những sự việc tự nhiên nhất trên đời này.”
“Tại sao anh không bắt giữ anh ta?” Wilson lắp bắp.
“Wilson, anh không quan sát thấy là quý ông đây đứng giữa tôi và cửa sao, và chỉ cách cửa vài bước chân? Tôi mới động đậy được ngón tay út thôi thì anh ta đã chẳng còn ở trong này rồi.”
“Đừng để điều đó có ảnh hưởng gì.” Lupin nói, vòng sang bên kia bàn và ngồi xuống, khiến cho lúc bấy giờ Sholmès chắn giữa anh ta và cửa, coi như là anh ta phó mặc mình cho sự định đoạt của viên thám tử Anh quốc.
Wilson nhìn Sholmès xem liệu ông ta có khâm phục hành động cố tình tỏ ra can đảm này hay không. Nét mặt viên thám tử Anh quốc vẫn lặng như tờ, nhưng lát sau, ông ta gọi: “Bồi bàn!”
Khi bồi bàn đi tới, ông ta yêu cầu mang ra soda, whisky và bia. Hiệp ước hòa bình được ký kết cho đến lúc có các chỉ thị mới. Trong quãng thời gian ngắn ngủi, bốn người đàn ông đã ngồi trò chuyện cùng nhau với vẻ thân thiện.
Herlock Sholmès trông giống kiểu người bạn có lẽ vẫn gặp hàng ngày trong giới kinh doanh. Ông ta khoảng năm mươi tuổi, bề ngoài nhìn như thể cả đời ngồi trong văn phòng, cộng các dãy số chán ngắt hoặc viết các báo cáo kế toán. Ông ta không có đặc điểm gì khác biệt so với những công dân bình thường của London, trừ cặp mắt – cặp mắt cực kỳ sắc sảo, thấu suốt.
Nhưng ông ta là Herlock Sholmès, điều đó có nghĩa ông ta là sự kết hợp tuyệt vời của trực giác, khả năng quan sát, nhãn thông, và tài khéo léo. Người ta tin tưởng một cách dễ dàng rằng, tạo hóa đã sẵn lòng lấy hai nhân vật thám tử phi thường nhất mà trí tưởng tượng của con người từng tạo ra từ trước tới nay, Dupin của Edgar Allen Poe và Lecoq của Émile Gaboriau, làm chất liệu để tạo ra một nhân vật thám tử mới phi thường hơn, siêu nhiên hơn. Và khi người ta đọc lịch sử những thành tích chói lọi của ông ta, những thành tích khiến ông ta vang danh toàn thế giới, người ta ngờ vực tự hỏi liệu thật chăng Herlock Sholmès không phải một nhân vật hoang đường, không phải một nhân vật hư cấu do bộ óc của tiểu thuyết gia vĩ đại Conan Doyle sản sinh ra, chẳng hạn.
Khi Arsène Lupin hỏi Sholmès về việc ông ta sẽ lưu lại Pháp bao lâu, ông ta đưa cuộc chuyện trò vào đúng hướng của nó, bằng câu trả lời: “Việc này phụ thuộc vào anh, thưa anh.”
“Ồ!” Arsène Lupin vừa cười to vừa thốt lên. “Nếu nó phụ thuộc vào tôi, ông có thể trở về Anh ngay đêm hôm nay.”
“Như thế thì hơi sớm quá, nhưng tôi hy vọng có thể trở về sau tám hoặc chín ngày nữa, cùng lắm là mười ngày.”
“Ông vội vã tới mức ấy sao?”
“Tôi có nhiều vụ án phải giải quyết, chẳng hạn vụ cướp Ngân hàng Anh – Trung, vụ bắt cóc tiểu thư Eccleston… Nhưng, anh Lupin, anh không nghĩ tôi có thể hoàn thành công việc của mình ở Paris trong vòng một tuần sao?”
“Đương nhiên ông có thể, nếu ông chỉ dồn nỗ lực vào vụ viên kim cương. Vả chăng, đó cũng là khoảng thời gian cần thiết để tôi chuẩn bị kế hoạch bảo đảm sự an toàn cho bản thân, phòng trường hợp cách giải quyết vụ viên kim cương mang lại cho ông những lợi thế nào đó khiến tôi gặp nguy hiểm.”
“Dẫu sao…” Viên thám tử người Anh nói. “Tôi vẫn nghĩ sẽ hoàn thành công việc trong vòng tám hoặc mười ngày.”
“Và bắt tôi vào ngày thứ mười một chăng?”
“Không, cùng lắm là ngày thứ mười.”
Lupin lắc đầu vẻ trầm ngâm, nói: “Như thế sẽ khó khăn, sẽ hết sức khó khăn đấy.”
“Khó khăn, có lẽ, nhưng có thể thực hiện được, và vì thế chắc chắn sẽ thực hiện được.”
“Tuyệt đối chắc chắn.” Wilson nói, y như là ông ta đã vạch rõ hàng loạt đường đi nước bước để đưa người bạn mình tới kết quả mong muốn.
“Đương nhiên tôi không nắm trong tay tất cả các lá bài chủ.” Herlock Sholmès nói. “Vì những vụ việc này đã xảy ra cách đây mấy tháng rồi, và tôi thiếu những thông tin cũng như những manh mối mà tôi quen căn cứ vào để tiến hành điều tra.”
“Các vết bùn hoặc tàn thuốc lá chẳng hạn.” Wilson nói với vẻ quan trọng.
“Ngoài những kết luận xuất sắc của ông Ganimard, tôi đã thu thập mọi bài báo liên quan tới chủ đề này, và đã rút ra được một số suy luận của bản thân tôi.”
“Chúng tôi nảy ra một số ý tưởng thông qua việc phân tích hoặc đặt giả thuyết.” Wilson nói thêm, vẻ dạy đời.
“Tôi muốn biết…” Arsène Lupin nói bằng giọng cung kính mà anh ta sử dụng để nói với Sholmès. “Liệu tôi có thiếu thận trọng không nếu tôi hỏi ông rằng ông đã hình thành quan điểm như thế nào về vụ việc?”
Quả là rất thú vị khi chứng kiến hai người đàn ông ấy mặt đối mặt qua chiếc bàn, nghiêm chỉnh thảo luận như thể họ bắt buộc phải giải quyết một vấn đề hết sức khó hiểu nào đó, hay phải đi đến thống nhất về một thực tế đang gây ra tranh cãi, ngờ vực.
“Vụ việc này đơn giản hơn nhiều so với thoạt nhìn.”
“Đơn giản hơn nhiều.” Wilson nói, như một tiếng dội lại trung thành.
“Tôi gọi là vụ việc này, vì theo quan điểm của tôi, chỉ có một vụ việc duy nhất.” Sholmès giải thích. “Cái chết của Nam tước d’Hautrec, câu chuyện về chiếc nhẫn, và, chúng ta đừng quên, tấm vé xổ số 514 bí ẩn, tất cả chỉ là những chương khác nhau của cái mà người ta có thể gọi là câu chuyện bí ẩn về Tiểu thư Tóc vàng. Bây giờ, theo quan điểm của tôi, nó đơn giản là vấn đề khám phá ra mối quan hệ giữa ba chương của cùng một câu chuyện ấy, những thực tế sẽ cho thấy điểm chung giữa ba sự kiện. Ganimard, với óc phán đoán thiển cận, nhận thấy điểm chung ở đây là khả năng biến mất, tức là khả năng đến và đi vô ảnh vô thanh, chẳng ai hay chẳng ai biết. Tôi không thỏa mãn với ý kiến đó.”
“Chà, vậy ý kiến của ông thế nào?” Lupin hỏi.
“Theo tôi…” Sholmès nói. “Nét tiêu biểu của cả ba chương ấy nằm ở ý đồ và mục đích của anh, nhằm lèo lái vụ việc đi đúng hướng anh đã chọn lựa từ trước. Về phần anh, nó không chỉ là một kế hoạch, nó là sự cần thiết, là điều kiện bắt buộc để đạt được thành công.”
“Liệu ông có thể giải thích chi tiết hơn về giả thuyết này?”
“Đương nhiên. Ví dụ, chẳng phải ngay từ đầu cuộc chiến giữa anh với ông Gerbois, căn hộ của ông Detinan đã là địa điểm do anh chọn lựa hay sao, một địa điểm tất yếu để tất cả các bên tiến hành gặp gỡ? Theo anh, nó là địa điểm duy nhất an toàn, và anh đã bố trí tại đây một cuộc hẹn, một cách công khai, có thể nói vậy, cho Tiểu thư Tóc vàng và cô Gerbois.”
“Con gái ông thầy giáo.” Wilson chú thích thêm.
“Nào, chúng ta hãy xem xét vụ viên kim cương. Anh có cố gắng đoạt nó khi Nam tước d’Hautrec vẫn còn sở hữu nó không? Không. Nhưng Nam tước thừa hưởng ngôi nhà của ông anh trai. Sáu tháng sau, Antoinette Bréhat xuất hiện với nỗ lực chiếm lấy viên kim cương lần thứ nhất. Viên kim cương chưa kịp lọt vào tay anh, buổi đấu giá được quảng cáo rộng rãi là sẽ diễn ra tại phòng đấu giá của Công ty Drouot. Nó có phải một buổi đấu giá tự do, công khai không? Có phải tay chơi nghiệp dư lắm tiền nhiều của nhất chắc chắn sẽ là người chiến thắng không? Không. Đúng lúc ông chủ ngân hàng Herschmann sắp sửa mua chiếc nhẫn đến nơi rồi, một phụ nữ gửi cho ông ta bức thư cảnh báo. Và bà Bá tước Crozon, bị cùng người phụ nữ kia tác động, trở thành nhân vật sở hữu viên kim cương. Viên kim cương có ngay lập tức biến mất không? Không, anh chưa có cơ hội. Vì thế, anh phải chờ đợi. Cuối cùng, bà Bá tước tới nghỉ ở lâu đài của mình. Đó là cơ hội anh đang rình rập. Viên kim cương biến mất.”
“Để lại xuất hiện trong chai thuốc đánh răng của ông Bleichen.” Lupin nhận xét.
“Ồ! Nhảm nhí hết sức!” Sholmès kêu lên, nện nắm đấm xuống bàn. “Đừng kể cho tôi nghe câu chuyện hoang đường như thế. Con cáo đã quá già như tôi sao có thể bị mùi giả dắt mũi.”
“Ý ông muốn nói gì?”
“Ý tôi muốn nói gì ấy à?” Sholmès hỏi lại, rồi ông ta ngừng lời một chút như thể để gây ấn tượng. Cuối cùng, ông ta nói: “Viên kim cương xanh được tìm thấy trong chai thuốc đánh răng là viên kim cương giả. Viên kim cương thật đã vào tay anh.”
Arsène Lupin im lặng một lát, rồi, nhìn chằm chằm viên thám tử người Anh, anh ta đáp bình thản: “Thưa ông, ông quả là táo bạo.”
“Táo bạo, thật vậy!” Wilson lặp lại, nét mặt thích thú rạng ngời.
“Phải.” Lupin nói. “Và, giờ đây, để nâng cao uy tín, ông đã có một lời giải thích táo bạo cho một vấn đề hết sức bí ẩn. Không một thẩm phán, không một phóng viên đặc biệt nào, những người đã tham gia giải quyết vụ việc này, lại đến gần sự thực được như vậy. Đó là sự biểu lộ tuyệt vời của trực giác và logic.”
“Ồ! Chỉ cần động não suy nghĩ một chút thôi mà.” Sholmès nói, lấy làm hãnh diện khi được gã tội phạm lão luyện tôn kính.
“Hiếm kẻ có não mà dùng lắm.” Lupin đáp lời. “Và, giờ đây, phạm vi phán đoán đã được thu hẹp, rác rưởi đã được dọn dẹp sạch sẽ.”
“Chà, giờ đây, tôi chỉ phải khám phá nguyên nhân tại sao ba chương ấy lại được diễn ra tại số 25 đường Clapeyron, số 134 đại lộ Henri-Martin, và giữa các bức tường của lâu đài Crozon, đến đây là nhiệm vụ của tôi hoàn thành. Những gì còn lại là trò trẻ con. Anh có nghĩ thế không?”
“Vâng, tôi cho là ông đúng.”
“Nếu vậy thì, anh Lupin, tôi có sai lầm không khi nói công việc của tôi sẽ xong trong mười ngày?”
“Trong mười ngày, ông sẽ biết toàn bộ sự thực.” Lupin đáp.
“Và anh sẽ bị bắt.”
“Không đâu.”
“Không ư?”
“Tôi chỉ bị bắt nếu xảy ra một loạt những rủi ro đâu đâu và đầy bất ngờ, mà những rủi ro đó thì tôi xin khẳng định là không có khả năng xảy ra.”
“Người Anh chúng tôi có câu: Cuộc đời mấy ai biết trước được chữ ngờ.⦾”
Họ nhìn nhau một lúc, điềm tĩnh, can đảm, không hề có chút ác ý hay ra vẻ hiên ngang. Họ gặp nhau như hai đối thủ ngang sức ngang tài trong trận giao tranh của trí tuệ và sự khéo léo. Buổi hội ngộ này là màn so kiếm chính thức, mở đầu cuộc đấu tay đôi.
“A!” Lupin kêu lên. “Rốt cuộc tôi sẽ có một đối thủ xứng đáng với tên tuổi của ông ta, thất bại của ông ta sẽ là thành tích đáng tự hào nhất trong sự nghiệp của tôi.”
“Anh không sợ ư?” Wilson hỏi.
“Cũng gần sợ, thưa ông Wilson.” Lupin đứng dậy khỏi ghế, đáp. “Bằng chứng là tôi sắp sửa vội vã rút lui đây. Vậy, chúng ta giao hẹn là mười ngày nhé, thưa ông Sholmès!”
“Phải, mười ngày. Hôm nay là Chủ nhật. Đến thứ Tư tuần sau nữa, tám giờ tối, tất cả sẽ kết thúc.”
“Và tôi sẽ bị ném vào tù!”
“Chắc chắn thế.”
“Ha! Một viễn cảnh chẳng thú vị gì đối với một kẻ vốn vẫn tận hưởng quá nhiều niềm vui cuộc sống như tôi. Không một nỗi lo lắng băn khoăn trên đời, vô cùng quan tâm tới thế sự, khinh thường cảnh sát với những lý do chính đáng, là nguồn động viên an ủi của đông đảo bạn bè và người hâm mộ. Giờ đây, hãy chú ý này, tất cả các cái đó sắp sửa đổi thay! Nó chính là mặt sau tấm huân chương. Hết những ngày trời quang mây tạnh là mưa gió bão bùng. Chẳng còn là chuyện đùa nữa. Adieu⦾!”
“Nhanh lên!” Wilson giục giã, đầy quan tâm tới một con người đã khiến Herlock Sholmès rất đỗi tôn trọng. “Đừng lãng phí phút giây nào.”
“Không lãng phí phút giây nào, thưa ông Wilson. Nhưng tôi muốn bày tỏ niềm hân hạnh được gặp ông, và muốn nói với ông rằng sếp ông khiến tôi ghen tị vì ông ấy có một người trợ lý đáng quý như ông.”
Rồi, sau khi họ lịch sự chào nhau như những đối thủ trong một cuộc đấu tay đôi, những con người không hề ấp ủ sự ác ý nào nhưng bắt buộc phải chiến đấu vì tình thế xô đẩy, Lupin nắm cánh tay tôi, lôi tôi ra ngoài.
“Anh nghĩ thế nào, bạn thân mến? Những sự kiện lạ lùng của buổi tối hôm nay sẽ làm thành một chương thú vị trong cuốn hồi ký anh đang chuẩn bị viết cho tôi.”
Anh ta đóng cánh cửa nhà hàng lại sau lưng, rồi, sau khi bước đi vài bước, anh ta dừng lại hỏi: “Anh có hút thuốc không?”
“Không. Tôi thấy anh hình như cũng không hút thuốc.”
“Anh đúng đấy, tôi không hút thuốc.”
Anh ta quẹt diêm châm một điếu thuốc, vẩy que diêm mấy lần cho tắt lửa đi. Nhưng anh ta ngay lập tức vứt điếu thuốc, chạy vội vã sang bên kia đường, đến chỗ hai người đàn ông vừa từ trong bóng tối hiện ra như thể nhận được tín hiệu gọi. Anh ta trao đổi với họ vài phút trên vỉa hè, rồi quay lại chỗ tôi đang đứng.
“Tôi xin lỗi anh, có điều tôi sợ cái lão Sholmès đáng ghét đó gây chuyện phiền nhiễu cho tôi. Nhưng, tôi cũng cam đoan rằng ông ta chưa xong với Arsène Lupin đâu. Ông ta sẽ biết tôi hâm nóng máu mình bằng thứ nhiên liệu gì. Và bây giờ thì, au revoir⦾! Gã Wilson tốt bụng đó nói đúng đấy, không được lãng phí một giây phút nào.”
Đến đây, những sự kiện của buổi tối đầy lý thú, hay ít nhất là những sự kiện bản thân tôi có tham gia, đã kết thúc. Tiếp theo, trong phần còn lại của buổi tối, đã xảy ra những sự việc ly kỳ mà tôi biết được qua lời kể của những người cùng có mặt tại cái bữa tối quá lạ lùng kia.
Đúng lúc Lupin chia tay tôi, Herlock Sholmès đứng dậy khỏi bàn, nhìn đồng hồ đeo tay. “Chín giờ kém hai mươi. Chín giờ, tôi sẽ gặp ông bà Bá tước ở ga tàu hỏa.”
“Vậy chúng ta phải đi thôi!” Wilson kêu lên, giữa hai ngụm whisky.
Họ rời khỏi nhà hàng.
“Wilson, đừng nhìn lại đằng sau. Chúng ta có thể bị bám theo đấy, và, trong trường hợp ấy, hãy làm như chúng ta không buồn quan tâm. Wilson, tôi muốn hỏi ý kiến anh, tại sao Lupin có mặt tại nhà hàng?”
“Để bỏ bụng cái gì thôi.” Wilson nhanh chóng đáp.
“Wilson, tôi phải chúc mừng anh vì đã suy luận chính xác. Bản thân tôi không thể suy luận chính xác hơn thế.”
Wilson thích thú đỏ cả mặt, và Sholmès tiếp tục: “Để bỏ bụng cái gì đó. Rất tốt, và ngoài ra có lẽ để tự kiểm tra cho chắc chắn rằng liệu tôi có tới lâu đài Crozon như Ganimard nói trong bài phỏng vấn không. Tôi phải tới đấy, để anh ta khỏi thất vọng. Nhưng, để kéo dài thời gian, tôi sẽ chưa tới.”
“A!” Wilson bối rối thốt lên.
“Anh, bạn tôi, anh sẽ đi bộ xuôi theo con phố này, nhảy lên đôi ba cỗ xe ngựa chạy lòng vòng. Rồi quay lại lấy va li chúng ta đang để ở ga xe lửa. Sau đó mau mau phi tới điện Élysées.”
“Và khi tôi tới điện Élysées rồi?”
“Thuê một căn phòng, đi ngủ, và chờ chỉ thị của tôi.”
Hết sức tự hào với vai trò quan trọng được giao, Wilson bắt đầu thực hiện nhiệm vụ. Herlock Sholmès tiếp tục đi đến ga tàu hỏa, mua vé, và lên chuyến tàu tốc hành đi Amiens. Ông bà Bá tước Crozon đã ở trên chuyến tàu này rồi. Ông ta cúi chào họ, châm tẩu thuốc lá, lặng lẽ hút ngoài hành lang. Tàu chuyển bánh. Mười phút sau, ông ta ngồi xuống bên cạnh bà Bá tước, nói với bà ta: “Bà có chiếc nhẫn ở đây không, thưa bà?”
“Có.”
“Bà làm ơn cho tôi xem nó.”
Sholmès cầm chiếc nhẫn lên, nghiên cứu kĩ càng. “Đúng như tôi đã nghi ngờ, đây là kim cương nhân tạo.”
“Kim cương nhân tạo ư?”
“Vâng, có một phương pháp mới trong đó người ta sẽ nung bột kim cương ở nhiệt độ cực kỳ cao để nó nóng chảy, tiếp theo là cho kim cương nóng chảy vào khuôn để tạo thành từng viên.”
“Nhưng kim cương của tôi là kim cương thật.”
“Vâng, viên kim cương của bà là thật, nhưng đây không phải viên kim cương của bà.”
“Thế viên kim cương của tôi đâu?”
“Nó đang ở trong tay Arsène Lupin.”
“Còn viên kim cương này?”
“Là vật thay thế cho viên kim cương của bà, được nhét vào chai thuốc đánh răng của ông Bleichen và đã được phát hiện ra.”
“Vậy ông nghĩ cái này là đồ giả?”
“Dứt khoát là đồ giả.”
Bà Bá tước vừa ngạc nhiên lại vừa đau khổ, trong lúc ông chồng tỉ mẩn xem xét viên kim cương với điệu bộ ngờ vực. Rốt cuộc, bà ta lắp bắp: “Có thể vậy ư? Mà tại sao bọn chúng chẳng đánh cắp nó xong là xong? Với lại bọn chúng đánh cắp nó bằng cách nào?”
“Đó chính xác là những điều tôi sẽ khám phá ra.”
“Tại lâu đài Crozon ư?”
“Không. Đến Creil, tôi sẽ xuống tàu, quay lại Paris. Ván bài giữa tôi và Arsène Lupin phải được chơi ở đó. Thực ra, ván bài đã bắt đầu rồi, và Lupin tưởng tôi đang trên đường tới lâu đài.”
“Nhưng…”
“Thưa bà, bà thấy có vấn đề gì? Vấn đề cốt yếu là viên kim cương của bà, có đúng không ạ?”
“Đúng.”
“Vậy thì đừng lo lắng. Tôi vừa hoàn thành một nhiệm vụ còn khó khăn hơn nhiều. Tôi xin hứa tôi sẽ lấy lại viên kim cương thật cho bà trong vòng mười ngày.”
Tàu giảm tốc độ. Sholmès bỏ viên kim cương giả vào túi áo khoác và mở cửa toa. Ông Bá tước kêu lên: “Ông nhầm phía rồi. Ông xuống phía ấy là phía đường ray.”
“Ý định của tôi đấy. Nếu Lupin có cho kẻ nào bám theo tôi, thì bây giờ hắn sẽ mất dấu. Adieu.”
Một nhân viên trên tàu phản đối nhưng vô ích. Tàu chuyển bánh, viên thám tử người Anh tìm đến văn phòng trưởng ga. Bốn mươi phút sau, ông ta nhảy lên chuyến tàu đưa ông ta tới Paris trước nửa đêm một chút. Ông ta vội vã băng ngang qua sân ga, vào nhà ăn rồi rời khỏi đó theo một lối khác, nhảy lên một cỗ xe ngựa. “Bác đánh xe, cho đến đường Clapeyron.”
Sau khi kết luận rằng mình không bị bám đuôi, Sholmès bảo chiếc xe ngựa dừng ở cuối đường và bắt đầu thận trọng xem xét ngôi nhà của ông Detinan cùng với hai ngôi nhà hai bên. Ông ta đo các khoảng cách, ghi chép các số liệu vào sổ.
“Bác đánh xe, cho đến đại lộ Henri-Martin.”
Đến đoạn đại lộ này cắt đường Pompe, Sholmès xuống xe, đi bộ xuôi theo con phố tới số 134, lặp lại công việc lúc nãy phía trước ngôi nhà của Nam tước d’Hautrec quá cố cùng với hai ngôi nhà hai bên, đo chiều rộng mặt tiền từng ngôi nhà, tính toán chiều sâu các mảnh vườn nhỏ phía trước.
Đại lộ vắng tanh vắng ngắt, tối om om bên dưới bốn hàng cây to. Giữa những hàng cây, vài ngọn đèn khí đốt cách khá xa nhau chẳng thể xua đi bóng tối dày đặc. Một ngọn đèn hắt ánh sáng leo lét lên một góc ngôi nhà, và Sholmès nhận ra tấm biển Cho thuê treo trên cổng, những lối đi bị bỏ mặc bao quanh bãi cỏ nhỏ, những khung cửa sổ lớn không rèm của ngôi nhà không có người ở..
Ông ta tự nhủ: “Ta nghĩ ngôi nhà đã không có người ở kể từ cái chết của ông Nam tước… Ồ! Giá như ta có thể vào và quan sát hiện trường vụ án mạng!”
Ngay sau khi ý tưởng này nảy ra trong đầu, Sholmès lập tức tìm cách thực hiện. Nhưng làm sao ông ta thực hiện được? Ông ta không thể trèo qua cổng, vì cổng cao quá. Thế là ông ta lấy từ túi áo khoác ra chiếc đèn pin cùng với chiếc chìa khóa vạn năng mà ông ta luôn luôn mang theo người. Rồi, ông ta hết sức ngạc nhiên thấy cổng không khóa. Thực tế, cổng còn đang hé mở. Ông ta vào vườn, và thận trọng để cổng hé mở y hệt lúc trước. Tuy nhiên, ông ta mới bước có vài bước thì dừng lại. Ông ta trông thấy một ánh đèn lướt qua một trong những khung cửa sổ trên tầng ba.
Sholmès trông thấy ánh đèn lướt qua khung cửa sổ thứ hai, rồi thứ ba, nhưng ông ta không trông thấy gì khác ngoài một cái bóng in trên các bức tường. Ánh đèn đi xuống tầng hai và cứ loanh quanh luẩn quẩn từ phòng nọ sang phòng kia một lúc lâu.
“Kẻ quái quỷ nào một giờ sáng dám đi đi lại lại trong ngôi nhà mà Nam tước d’Hautrec đã bị sát hại?” Herlock Sholmès tự hỏi, hết sức tò mò.
Chỉ có duy nhất một cách để khám phá, là tự mình vào bên trong. Ông ta không do dự, bắt đầu xăm xăm tiến đến cửa của ngôi nhà. Tuy nhiên, lúc ông ta đi ngang qua vệt sáng do ngọn đèn khí đốt từ phố hắt vào, hẳn ông ta đã bị kẻ kia trông thấy, vì ánh đèn bên trong nhà phụt tắt và Herlock Sholmès chẳng còn trông thấy nó nữa. Ông ta khẽ khàng thử đẩy cánh cửa. Cửa cũng đang mở. Không nghe thấy tiếng động nào, ông ta đi dọc theo hành lang, tới chân cầu thang, lên tầng hai. Ở đây cũng tĩnh lặng, cũng tối tăm y như dưới gác.
Sholmès đi vào một trong các căn phòng, đến gần một cửa sổ mà qua đó ánh sáng lờ mờ từ bên ngoài lọt vào. Nhìn ra qua cửa sổ, ông ta trông thấy kẻ kia, chắc chắn hắn đã xuống gác theo một lối cầu thang khác và chuồn ra qua một cửa khác. Hắn đang len lỏi giữa những bụi cây mọc dọc bức tường ngăn cách hai mảnh vườn.
“Quỷ tha ma bắt!” Sholmès kêu lên. “Hắn sẽ thoát mất.”
Ông ta lao ngay xuống cầu thang, hăm hở nhảy khỏi các bậc thềm hòng chặn đường rút lui của kẻ kia. Nhưng ông ta không trông thấy ai cả, và vì trời tối quá, ông ta mất mấy giây mới có thể nhận ra một vóc dáng cao lớn đang di chuyển qua các bụi cây. Điều này khiến viên thám tử người Anh ngẫm nghĩ. Tại sao kẻ kia chẳng chạy đi, việc hắn đáng lẽ sẽ thực hiện được rất dễ dàng? Hắn ở lại nhằm theo dõi động thái của kẻ đột nhập đã quấy rầy hành tung bí ẩn của hắn?
“Dù gì thì đó cũng chẳng phải là Lupin.” Sholmès kết luận. “Anh ta ắt khéo léo hơn. Có thể là người của anh ta.”
Trong vòng vài phút, Herlock Sholmès không hề nhúc nhích, chằm chằm nhìn đối thủ. Về phần mình, hắn cũng đang quan sát viên thám tử. Nhưng vì đối thủ đã trở nên thụ động, và vì viên thám tử người Anh chẳng phải một người chịu phí thời gian đợi chờ vô ích, ông ta kiểm tra khẩu súng lục xem nó có hoạt động tốt không, rút dao khỏi vỏ, bước về phía địch với vẻ dày dạn thản nhiên, xem thường nguy hiểm, tính cách vốn vẫn nổi tiếng ở ông ta.
Sholmès nghe thấy tiếng lách cách, đó là đối thủ của ông ta sửa soạn khẩu súng lục. Ông ta liều lĩnh lao vào bụi cây, ôm ghì lấy kẻ địch. Cuộc vật lộn diễn ra nhanh chóng, dữ dội, và Sholmès nghi ngờ là kẻ kia đang cố gắng rút dao. Nhưng viên thám tử người Anh vì đinh ninh đối thủ của mình là tòng phạm của Arsène Lupin và sốt ruột muốn thắng chiêu đầu tiên trong ván bài với kẻ thù đáng gờm, nên chiến đấu một cách quyết tâm, dũng mãnh khác thường. Ông ta dằn mạnh được đối thủ xuống đất, ngồi đè lên trên, rồi, một tay tóm chặt cổ họng hắn, ông ta dùng tay kia lôi chiếc đèn pin ra, bấm nút, chiếu thẳng vào mặt địch.
“Wilson!” Ông ta kinh ngạc thốt lên.
“Herlock Sholmès!” Một giọng nghèn nghẹt, yếu ớt lắp bắp.
Chẳng ai nói gì hồi lâu, bàng hoàng, sững sờ, và cảm thấy mình ngu ngốc. Tiếng rít của một chiếc xe hơi xé tan bầu không khí ban đêm. Một cơn gió thoảng qua khiến lá cây rung rinh, lay động. Herlock Sholmès đột ngột túm vai bạn mình lắc lấy lắc để, kêu lên: “Anh đang làm gì ở đây? Nói cho tôi nghe đi… Làm gì?… Tôi có bảo anh trốn trong bụi cây rình rập tôi không?”
“Rình rập anh ư?” Wilson lẩm bẩm. “Sao cơ, tôi đâu biết là anh chứ.”
“Nhưng anh đang làm gì ở đây? Anh đáng lẽ phải ở trên giường mà.”
“Tôi đã ở trên giường.”
“Anh đáng lẽ phải ngủ.”
“Tôi đã ngủ.”
“Ồ, vậy cái gì đưa anh đến đây?” Sholmès hỏi.
“Bức thư của anh.”
“Bức thư của tôi? Tôi không hiểu.”
“Một người đưa thư đã đưa tới khách sạn cho tôi.”
“Từ tôi? Anh có điên không hả?”
“Đó là sự thực, tôi thề.”
“Bức thư đâu?”
Wilson đưa cho Sholmès một tờ giấy, ông ta đọc dưới ánh sáng đèn pin. Bức thư viết:
Wilson, hãy ngay lập tức tới đại lộ Henri-Martin. Ngôi nhà đang bị bỏ không. Xem xét kĩ lưỡng toàn bộ chỗ đó và vẽ sơ đồ chính xác. Rồi quay lại khách sạn.
HERLOCK SHOLMÈS
“Lúc nãy tôi đang đo kích thước các căn phòng.” Wilson nói. “Khi tôi trông thấy một bóng đen trong vườn, tôi chỉ có ý nghĩ…”
“Là tóm cổ cái bóng đen đó… Ý nghĩ tuyệt vời đấy… Nhưng hãy ghi nhớ điều này, Wilson, bất cứ khi nào nhận được thư của tôi, hãy kiểm tra cho chắc chắn đúng chữ viết của tôi chứ không phải chữ viết giả mạo nhé.”
“Ôi!” Wilson bật thốt, khi sự thực lóe lên trong đầu ông ta. “Vậy bức thư không phải của anh ư?”
“Không.”
“Vậy ai gửi nó?”
“Arsène Lupin.”
“Tại sao? Nhằm mục đích gì?” Wilson hỏi.
“Tôi không biết, và điều đó khiến tôi lo lắng. Tôi không hiểu tại sao anh ta mất công quấy rầy anh. Đương nhiên, nếu anh ta sai tôi đi làm một việc vặt ngớ ngẩn như thế thì tôi sẽ chẳng ngạc nhiên, nhưng anh ta quấy rầy anh nhằm mục đích gì?”
“Tôi phải nhanh chóng trở về khách sạn mới được.”
“Tôi cũng vậy, Wilson.”
Họ ra đến cổng. Wilson đi trước, nắm cánh cổng đẩy.
“Ôi! Anh đã đóng cổng lại.” Ông ta nói.
“Không, tôi để nó hé mở mà.”
Sholmès thử đẩy cổng, rồi hốt hoảng kiểm tra khóa cổng. Ông ta buột câu chửi thề: “Mẹ kiếp! Cổng bị khóa! Khóa bằng chìa!”
Sholmès lấy hết sức lay cánh cổng, rồi, nhận ra nỗ lực của mình là vô ích, ông ta thả thõng hai tay xuống, chán nản lẩm bẩm một cách nhát gừng: “Bây giờ thì tôi có thể thấy đây là Lupin. Anh ta đã biết trước tôi sẽ rời tàu tại Creil, và anh ta sửa soạn cái bẫy xinh xắn khéo léo này phòng trường hợp tôi bắt đầu điều tra ngay đêm hôm nay. Ngoài ra, anh ta cũng đủ tử tế để gửi tới cho tôi một người làm bầu bạn trong tình trạng bị giam hãm. Tất cả được thực hiện nhằm lấy đứt của tôi một ngày, và có lẽ còn nhằm dạy tôi rằng đừng dính dáng vào việc của kẻ khác.”
“Anh muốn nói chúng ta đã trở thành tù nhân?”
“Chính xác thế đấy. Herlock Sholmès và Wilson là tù nhân của Arsène Lupin. Một sự khởi đầu tồi tệ, nhưng, cười người chớ vội cười lâu, cười người hôm trước hôm sau người cười.”
Wilson chộp cánh tay Sholmès, kêu lên: “Nhìn kìa!… Nhìn trên kia kìa!… Có ánh sáng…”
Ánh sáng lọt ra qua một trong những ô cửa sổ tầng hai. Cả hai chạy lại phía ngôi nhà, mỗi người lên theo lối cầu thang mà lúc nãy mình vừa xuống. Họ gặp nhau trước cửa căn phòng có ánh sáng. Một cây nến nhỏ đang cháy chính giữa căn phòng, bên cạnh đặt chiếc giỏ đựng một chai rượu, một con gà quay và một ổ bánh mì.
Sholmès cực kỳ thích thú, cười ha hả. “Tuyệt vời! Chúng ta được mời ăn tối. Quả là một chốn đáng yêu, một xứ sở cổ tích đích thực. Nào, Wilson, phấn chấn lên! Đây đâu phải một đám tang. Tất cả rất khôi hài.”
“Anh có chắc chắn nó rất khôi hài không?” Wilson hỏi, giọng thảm sầu.
“Tôi có chắc chắn không ấy à?” Sholmès kêu lên, hoan hỉ một cách quá mức, không có vẻ tự nhiên chút nào. “Sao, nói thật, đây là sự việc khôi hài nhất tôi từng biết. Một vở hài kịch rất hay! Tay Arsène Lupin này mới bậc thầy về châm biếm làm sao chứ! Anh ta biến chúng ta thành đồ ngốc một cách cực kỳ tao nhã, ý nhị. Có cho tôi toàn bộ số tiền trong Ngân hàng Anh quốc tôi cũng chẳng bỏ lỡ bữa tiệc này. Nào, Wilson, anh khiến tôi đau lòng. Anh nên thể hiện cái cá tính cao quý biết vượt lên trên rủi ro. Tôi không thấy anh có lý do gì để phàn nàn. Thực sự, tôi không thấy.”
Sau khi hết hài hước lại châm biếm một hồi, Sholmès đã khôi phục được tâm trạng bình thường của Wilson, ép được ông ta nuốt một miếng gà và uống một ly rượu. Nhưng khi nến đã cháy hết và họ sửa soạn đi ngủ, lấy khoảng sân trần trụi làm giường và mảng tường cứng đanh làm gối, họ mới thấm cái khía cạnh lố bịch, đáng khó chịu của hoàn cảnh. Cái tình huống đặc biệt ấy sẽ chẳng làm thành một chương thú vị trong cuốn hồi ký của viên thám tử danh tiếng lẫy lừng.
Sáng hôm sau, Wilson thức giấc, người lạnh cóng, cứng đờ. Một âm thanh khẽ khàng khiến ông ta chú ý: Herlock Sholmès đang quỳ gối trên sàn, xem xét vài hạt cát với vẻ phân tích, và nghiên cứu các nét phấn, lúc bấy giờ hầu như đã bị xóa, thể hiện những con số nào đó. Ông ta chép những con số vào sổ.
Cùng với Wilson, người hết sức quan tâm tới công việc này, ông ta đi kiểm tra từng căn phòng và phát hiện ra các nét phấn tương tự ở hai căn phòng khác. Ông ta cũng để ý thấy hai vòng tròn trên những tấm ván sàn bằng gỗ sồi, một mũi tên trên một tấm ván ốp chân tường, và bốn con số trên bốn bậc cầu thang. Sau một tiếng đồng hồ, Wilson nói: “Các con số chính xác, phải không?”
“Tôi không biết, nhưng dù gì thì chúng cũng có ý nghĩa nào đấy.” Sholmès trả lời. Ông ta đã quên hết những bực bội hồi đêm trước niềm vui khám phá ra các chi tiết mới.
“Hoàn toàn rõ ràng.” Wilson nói. “Chúng thể hiện số khoang bí mật nằm phía dưới sàn.”
“Ồ!”
“Phải. Hai vòng tròn thể hiện rằng những tấm ván sàn đó là giả, anh có thể xác nhận một cách dễ dàng, và mũi tên thể hiện hướng di chuyển những tấm ván sàn đó.”
Herlock Sholmès kinh ngạc nhìn Wilson.
“Ồ, bạn thân mến của tôi, làm sao anh biết tất cả những điều ấy? Nhãn thông của anh khiến năng lực kém cỏi của tôi trong lĩnh vực này xem chừng hoàn toàn vô nghĩa.”
“Ôi! Rất đơn giản.” Wilson đáp, phổng mũi tự hào. “Đêm hôm qua, tôi đã xem xét các dấu vết này, theo chỉ thị của anh, hay nói đúng hơn, theo chỉ thị của Arsène Lupin, vì anh ta là người viết bức thư gửi cho tôi.”
Lúc ấy, Wilson đứng trước mối nguy hiểm còn lớn hơn cả lúc vật lộn với Herlock Sholmès trong vườn. Sholmès cảm thấy một khao khát mãnh liệt được siết lấy cổ Wilson. Nhưng, dằn lòng, Sholmès nở nụ cười tuy nó biến thành một cái nhăn mặt. “Thật vậy, Wilson, anh đã làm rất tốt và đáng được tuyên dương. Cơ mà, hãy nói xem, anh có sử dụng năng lực quan sát và phân tích trên những điểm nào nữa không? Suy luận của anh có lẽ sẽ mang lại lợi ích cho tôi đấy.”
“Ồ! Không, tôi không xem xét sâu hơn.”
“Đáng tiếc. Sự khởi đầu của anh đầy hứa hẹn. Tuy nhiên, vì tất cả chỉ có thế, chắc chúng ta đi được rồi.”
“Đi ư? Nhưng chúng ta ra ngoài bằng cách nào?”
“Theo cách của những người lương thiện, là ra qua cổng.”
“Nhưng cổng bị khóa rồi.”
“Nó sẽ được mở.”
“Ai mở?”
“Xin hãy gọi hai viên cảnh sát đang lững thững đi dạo dọc theo đại lộ kia.”
“Nhưng…”
“Nhưng sao?”
“Như thế rất bẽ mặt. Người ta sẽ nói gì khi biết Herlock Sholmès và Wilson bị Arsène Lupin giam giữ?”
“Đương nhiên, tôi hiểu rằng người ta sẽ cười rầm rĩ.” Herlock Sholmès nhăn mặt đáp, giọng khô khan. “Nhưng chúng ta không thể cứ ngồi đây coi nhà được.”
“Và anh sẽ không cố gắng tìm cách khác thoát ra ngoài?”
“Không.”
“Nhưng người đem giỏ thực phẩm đến cho chúng ta đã không đi qua vườn, cả lúc vào lẫn lúc ra. Nghĩa là có một lối khác. Chúng ta hãy tìm kiếm lối ấy, chẳng phải phiền đến cảnh sát.”
“Lập luận của anh hợp lý đấy, nhưng anh quên rằng toàn bộ số thám tử ở Paris đã cố gắng tìm kiếm cái lối ấy suốt sáu tháng qua, và tôi cũng đã khám xét mọi ngóc ngách của ngôi nhà từ tầng trên xuống đến tầng dưới trong lúc anh đang ngủ. Ôi! Wilson thân mến của tôi, chúng ta không quen theo đuổi một cuộc chơi như cuộc chơi với Arsène Lupin này. Anh ta chẳng để lại chút dấu vết nào cả.”
Mười một giờ, Herlock Sholmès và Wilson được giải thoát khỏi ngôi nhà và được đưa đến đồn cảnh sát gần nhất. Tại đây, viên sĩ quan phụ trách, sau khi đã thẩm vấn rất khắt khe, trả tự do cho họ với vẻ thiện chí vờ vịt thật đáng cáu tiết.
“Thưa hai ông, tôi vô cùng lấy làm tiếc vì sự việc không may này. Hai ông sẽ đánh giá rằng người Pháp rất thiếu lòng mến khách. Trời ơi! Hai ông phải trải qua một đêm mới tồi tệ làm sao chứ! A! Cái tay Lupin khốn kiếp này đối xử với mọi người không phân biệt sang hèn gì.”
Họ bắt xe ngựa về khách sạn. Ở quầy lễ tân, Wilson hỏi chìa khóa phòng.
Sau khi lục lọi một hồi, người lễ tân sửng sốt nói: “Nhưng, thưa ông, ông đã trả phòng rồi.”
“Tôi đã trả phòng ư? Bao giờ?”
“Sáng hôm nay, bằng bức thư bạn ông mang tới đây.”
“Bạn nào?
“Chính cái ông đã mang một bức thư tới cho ông đấy… À! Danh thiếp của ông vẫn còn kèm theo bức thư. Đây ạ.”
Wilson nhìn bức thư và tấm danh thiếp. Không nghi ngờ gì cả, nó là danh thiếp của ông ta, và chữ viết trong bức thư là chữ viết của ông ta.
“Trời ơi là trời!” Wilson lẩm bẩm. “Lại một mánh khóe nữa của anh ta.” Và ông ta lớn tiếng hỏi: “Hành lý của tôi đâu?”
“Bạn ông mang đi rồi.”
“Ồ!… Anh đưa cho anh ta?”
“Đương nhiên ạ, vì có bức thư và tấm danh thiếp của ông.”
“Đương nhiên… đương nhiên.”
Họ rời khỏi khách sạn, bước đi chậm chạp, trầm ngâm, dọc đại lộ Champs-Élysées. Đại lộ rực rỡ và hớn hở dưới ánh mặt trời mùa thu, không khí ấm áp, dễ chịu.
Đến Rond-Point, Herlock Sholmès châm tẩu thuốc lá. Wilson lúc bấy giờ lên tiếng: “Tôi không hiểu anh, Sholmès ạ. Anh điềm tĩnh thế, chẳng mảy may xúc động gì. Bọn họ vờn anh y như mèo vờn chuột, mà anh không hé một lời.”
Sholmès dừng bước, đáp: “Wilson, tôi đang suy nghĩ về tấm danh thiếp của anh.”
“Ồ!”
“Vấn đề là như thế này: Một kẻ, vì có thể phải chiến đấu với chúng ta, đã kiếm được từ đâu đó mẫu chữ viết tay của chúng ta, và kiếm được một hoặc một số tấm danh thiếp của anh. Nào, anh đã suy nghĩ về việc những thực tế ấy thể hiện sự đề phòng và tài khéo léo lớn đến độ nào chưa?”
“Thế thì?”
“Thế thì, Wilson, để chiến thắng một kẻ thù được trang bị kĩ lưỡng và hết sức sẵn sàng như thế, cần đến sự cực kỳ khôn ngoan, sắc sảo của… của một Herlock Sholmès. Tuy nhiên, như anh đã thấy, tôi thua lượt đầu tiên rồi.”
Lúc sáu giờ, tờ Tiếng vang nước Pháp đăng tải bài viết sau trong ấn bản buổi chiều:
Sáng hôm nay, ông Thénard, sĩ quan phụ trách đồn cảnh sát Quận 16, đã giải thoát cho Herlock Sholmès và người bạn Wilson. Cả hai trước đấy bị khóa trong ngôi nhà của Nam tước d’Hautrec quá cố, trải qua một đêm hết sức dễ chịu nhờ sự quan tâm chăm sóc ân cần của Arsène Lupin.
Ngoài những phiền toái khác, hai quý ông này còn bị lấy mất các va li, và, vì thế, chính thức đưa đơn kiện Arsène Lupin.
Arsène Lupin, hài lòng vì đã gửi được cho hai quý ông này lời quở trách nhẹ nhàng, hy vọng rằng bọn họ không bắt buộc anh ta phải sử dụng đến các cách xử lý nghiêm khắc hơn.
“Chà!” Herlock Sholmès bật thốt, vò tờ báo trong lòng bàn tay. “Đó chỉ là trò trẻ con! Và đó là sự phê bình duy nhất tôi phải dành cho Arsène Lupin: Hắn vốn vẫn diễn cho đám khán giả bình dân xem. Hắn chẳng qua là lắm ngón bịp bợm.”
“Ồ! Sholmès, anh thật tuyệt diệu! Anh luôn luôn bình tĩnh như thế. Không bao giờ có cái gì khiến anh xáo đảo được.”
“Không, không có cái gì khiến tôi xáo đảo được.” Sholmès đáp, giọng giận dữ run lên. “Vả lại, mất bình tĩnh phỏng ích gì?… Tôi hoàn toàn tự tin vào kết quả cuối cùng. Tiếng nói của tôi sẽ là tiếng nói quyết định.”
Chú thích:
-Trận hải chiến giữa hải quân hoàng gia Anh và đội tàu hỗn hợp của hải quân Pháp và hải quân Tây Ban Nha năm 1805. Trong trận này, hải quân hoàng gia Anh đã chiến thắng.
- Nguyên văn: The unexpected always happens.
- Tiếng Pháp, có nghĩa là tạm biệt.
- Tiếng Pháp, có nghĩa là tạm biệt.