Chương 2
Đó là điều tôi không thích, Wilson.” Sholmès nói, sau khi đọc bức điện của Arsène Lupin. “Đó là điều khiến tôi càng cáu tiết hơn trong vụ việc này, cảm thấy cái ánh mắt láu cá, chế nhạo của hắn bám theo tôi khắp mọi nơi. Hắn thấy tất, hắn biết tất, hắn đọc được những ý nghĩ thầm kín nhất của tôi, hắn thậm chí còn thấy trước được những động thái nhỏ nhặt nhất của tôi nữa. Ồ! Hắn sở hữu trực giác phi thường, vượt xa trực giác của một phụ nữ bản năng nhất, phải, vượt cả trực giác của chính Herlock Sholmès. Không có gì mà hắn không nắm bắt được. Tôi giống như một diễn viên mà mỗi bước đi, mỗi cử chỉ đều do một chuyên gia sân khấu lão luyện chỉ đạo, làm cái này, nói cái kia, tất cả đều tuân theo ý chí của bề trên. Đó là cái thế của tôi bây giờ. Anh có hiểu không, Wilson?”
Đương nhiên Wilson sẽ hiểu nếu các giác quan của ông ta không mụ mị đi vì giấc ngủ li bì của cơn sốt dao động từ gần 38 độ tới 39 độ rưỡi. Nhưng ông ta có nghe thấy hay không thì cũng không thành vấn đề với Sholmès. Sholmès tiếp tục: “Tôi phải tập trung tất cả sức lực và huy động toàn bộ khả năng xoay xở của mình vào hành động để có được sự tiến bộ nhỏ nhất. Thật may cho tôi, những điều trái ý vặt vãnh ấy chỉ tựa như kim châm và có tác dụng kích thích tôi hào hứng hơn thôi. Ngay sau khi cảm giác bừng bừng vì bị xúc phạm dịu đi và cú sốc đối với lòng kiêu hãnh của tôi nguội bớt, tôi tự nhủ thầm:”Cứ việc thích chí, anh bạn quý hóa của tôi, nhưng cũng đừng quên cười người chớ vội cười lâu, cười người hôm trước hôm sau người cười. Chẳng chóng thì chày, anh sẽ lòi đuôi thôi.” Vì anh biết đấy, Wilson, chính là Lupin, qua bức điện đầu tiên hắn gửi đi và nhận xét của cô bé Henriette, đã để lộ cách thức thư từ bí mật giữa hắn với Alice Demun. Anh quên tình huống ấy rồi sao, bạn già?”
Wilson đang thiềm thiếp ngủ. Còn Sholmès vẫn vừa bước tới bước lui vừa tiếp tục: “Bây giờ thì tình hình chẳng đến nỗi tồi tệ, hơi mờ mịt một chút, có lẽ vậy, tuy nhiên ánh sáng cũng le lói rồi. Trước hết, tôi phải tìm hiểu mọi nhẽ về ông Bresson. Ganimard và tôi sẽ đến bờ sông xem xét, tại địa điểm Bresson vứt cái gói đi, và tôi sẽ nắm bắt được vai trò cụ thể của người đàn ông này. Sau đấy, sẽ là cuộc chơi giữa tôi với Alice Demun. Một đối thủ nhẹ ký, hả, Wilson? Và anh không nghĩ tôi sẽ sớm xác định được cái câu ghép từ các chữ cái cắt ở cuốn sách dạy bảng chữ cái ra sao, cũng như ý nghĩa của riêng hai chữ CH? Đó là tất cả những gì giờ đây tôi muốn biết, Wilson ạ.”
Đúng lúc ấy, cô gia sư bước vào, và, thấy Sholmès đang khoa tay múa chân, cô nói, bằng cung cách dịu dàng nhất: “Ông Sholmès, tôi sẽ phải quở trách ông nếu ông đánh thức bệnh nhân của tôi dậy. Ông quấy rầy ông ấy là không tốt. Bác sĩ đã ra lệnh để ông ấy nghỉ ngơi hoàn toàn.”
Sholmès im lặng nhìn cô gia sư, kinh ngạc trước khả năng tự chủ phi thường ở cô, y như trong lần gặp đầu tiên.
“Tại sao ông nhìn tôi với ánh mắt đó, ông Sholmès?… Xem chừng như ông đang cố gắng đọc suy nghĩ của tôi vậy… Không! Thế thì vì sao?”
Cô gia sư hỏi Sholmès với vẻ thơ ngây nhất hiện lên trên gương mặt xinh đẹp và trong cặp mắt ngay thật màu xanh da trời. Đôi môi cô thoáng nở nụ cười. Cô bộc lộ sự vô tư bình thản tới mức viên thám tử người Anh gần như mất hết cả bình tĩnh. Ông ta tiến đến chỗ cô, hạ giọng nói: “Đêm hôm qua Bresson đã tự sát.”
Cô gia sư tỏ vẻ không hiểu, nên Sholmès lặp lại: “Hôm qua Bresson đã tự sát.”
Cô không bộc lộ một chút xúc cảm nào, có hành động y như thể việc đó chẳng làm cô băn khoăn hay quan tâm lấy mảy may.
“Cô đã được thông báo rồi.” Sholmès nói, bộc lộ sự bực bội. “Nếu không, tin tức ấy ít nhất cũng làm cho cô giật mình. A! Cô mạnh mẽ hơn tôi tưởng. Nhưng cô cố gắng giấu giếm mọi việc với tôi có ích gì chứ?”
Sholmès cầm cuốn sách dạy bảng chữ cái mà lúc trước ông ta đã đặt ở chiếc bàn gần đấy lên. Và mở tới trang bị cắt, ông ta nói: “Cô hãy bảo cho tôi biết cần sắp xếp các chữ cái bị cắt theo trật tự như thế nào để diễn đạt được chính xác lời nhắn cô gửi Bresson bốn ngày trước khi vụ trộm cây đèn Do Thái xảy ra?”
“Trật tự?… Bresson?… Vụ trộm cây đèn Do Thái?”
Cô gia sư chầm chậm lặp lại từng từ, như thể cố gắng nắm bắt ý nghĩa của chúng.
Sholmès tiếp tục: “Phải. Đây là các chữ cái được dùng… trong trang này… Cô đã nhắn nhủ Bresson điều gì?”
“Các chữ cái được dùng… tôi đã nhắn nhủ điều gì ư?”
Cô gia sư bất chợt cười phá lên. “Ồ! Thế đấy! Tôi hiểu ra rồi! Tôi là kẻ đồng lõa trong vụ án. Có một ông Bresson nào đó đã ăn trộm cây đèn Do Thái và bây giờ thì người này đã tự sát. Và tôi là bạn bè của người này. Ôi! Ông mới phi lý làm sao!”
“Buổi tối hôm qua cô đã tới gặp ai trên tầng ba ngôi nhà ở đại lộ Ternes?”
“Ai ư? Người may mũ cho tôi, cô Langeais. Ông không nghĩ người may mũ cho tôi và ông Bresson bạn tôi là cùng một người chứ?”
Sau tất cả những gì đã nắm bắt được, Sholmès lúc bấy giờ đâm ra hoài nghi. Người ta có thể giả vờ sợ hãi, vui vẻ, băn khoăn, thực tế là có thể giả vờ mọi cảm xúc, nhưng người ta không thể giả vờ một vẻ hoàn toàn dửng dưng hay một tiếng cười thư thái và vô tư lự được. Tuy nhiên, ông ta tiếp tục hỏi: “Tại sao ở nhà ga xe lửa miền Bắc buổi tối hôm trước, cô xáp tới nói chuyện với tôi? Và tại sao cô khẩn khoản bảo tôi đừng điều tra vụ trộm này mà hãy rời khỏi Paris ngay lập tức?”
“Ô! Ông quá tò mò đấy, ông Sholmès.” Cô gia sư đáp, vẫn cười một cách tự nhiên nhất. “Để phạt ông, tôi sẽ không tiết lộ cho ông gì cả, và, ngoài ra, ông sẽ phải canh chừng bệnh nhân trong lúc tôi đi đến hiệu thuốc theo một lời nhắn cấp bách. Au revoir.”
Cô gia sư rời khỏi căn phòng.
“Mình đã thua… trước một đứa con gái.” Sholmès lẩm bẩm. “Mình chẳng những không khai thác được gì từ cô ta mà còn đánh động cô ta, khiến cô ta cảnh giác.”
Ông ta nhớ lại vụ viên kim cương xanh và cuộc chất vấn đầu tiên với Clotilde Destange. Chẳng phải Tiểu thư Tóc vàng đã trả lời các câu hỏi của ông ta một cách cũng bình thản y như vậy sao, chẳng phải ông ta đang một lần nữa mặt đối mặt với một trong những kẻ, dưới sự che chở và uy thế của Arsène Lupin, đứng trước nguy hiểm cực kỳ vẫn cực kỳ bình tĩnh sao?
“Sholmès… Sholmès…”
Đó là Wilson đang gọi. Sholmès đến bên giường, cúi xuống, hỏi: “Sao đấy, Wilson? Vết thương làm anh đau đớn ư?”
Môi Wilson mấp máy, nhưng ông ta không nói được. Cuối cùng, bằng nỗ lực ghê gớm, ông ta mới lắp bắp: “Không… Sholmès… không phải cô ấy… không thể nào.”
“Nào, Wilson, anh biết gì về việc đó! Tôi bảo cho anh biết chính là cô ta chứ chẳng phải ai khác! Chỉ khi tôi gặp một kẻ tay chân của Lupin, được hắn chuẩn bị sẵn sàng và chỉ đạo, tôi mới mất hết sự tự chủ, trở thành thằng ngốc… Tôi cá với anh trong vòng một tiếng đồng hồ nữa, Lupin sẽ biết về cuộc chất vấn vừa rồi. Trong vòng một tiếng đồng hồ thôi! Những gì tôi đang nói!… Sao, hắn có lẽ đã biết rồi cũng nên. Đi đến hiệu thuốc… lời nhắn cấp bách. Toàn nói bậy nói bạ!… Cô ta đi gọi điện cho Lupin thì có.”
Sholmès hấp tấp rời khỏi ngôi nhà, đi xuôi theo đại lộ Messine, vừa kịp trông thấy cô gia sư bước vào một hiệu thuốc. Mười phút sau, cô bước ra, cầm trên tay mấy cái gói nhỏ và một cái chai bọc giấy trắng. Nhưng cô mới đi được một quãng ngắn, một người đàn ông, mũ cầm trong tay vẻ khúm núm, xem ra là đang xin của bố thí. Cô dừng lại, đưa cho người đàn ông cái gì đó, và tiếp tục đi.
“Cô ta đã nói chuyện với gã kia.” Sholmès tự nhủ.
Nếu chẳng phải một sự chắc chắn, thì ít nhất cũng là một linh cảm, và là một linh cảm đủ mạnh mẽ để khiến ông ta thay đổi chiến thuật. Bỏ mặc cho cô gái tiếp tục đi đường mình, ông ta theo sau gã hành khất đang chầm chậm bước tới đại lộ Ternes, lảng vảng hồi lâu xung quanh ngôi nhà Bresson từng sống, thi thoảng lại ngước nhìn mấy ô cửa sổ trên tầng ba, và quan sát những người đi ra đi vào ngôi nhà.
Sau một tiếng đồng hồ, gã leo lên chuyến tàu điện chạy hướng Neuilly. Sholmès cũng lên, ngồi ở ghế phía sau gã, bên cạnh một người đàn ông đang giơ tờ báo che kín mặt mũi. Đến khu vực pháo đài, người đàn ông hạ tờ báo xuống, Sholmès nhận ra đó là Ganimard. Ông này liền vừa thì thào vừa chỉ gã ngồi phía trước: “Kẻ đêm hôm qua bám theo Bresson đấy. Gã đã theo dõi ngôi nhà một tiếng đồng hồ.”
“Có thêm thông tin gì về Bresson chưa?” Sholmès hỏi.
“Có, một bức thư sáng hôm nay gửi đến địa chỉ của anh ta.”
“Sáng hôm nay à? Vậy là nó được gửi ngày hôm qua, trước khi người gửi biết Bresson đã chết.”
“Chính xác. Bức thư đang nằm trong tay viên thẩm phán điều tra. Nhưng tôi đã đọc. Bức thư viết: Hắn sẽ không chấp nhận bất cứ sự thỏa hiệp nào. Hắn muốn tất, vật đầu tiên cũng như những vật của vụ thứ hai. Bằng không, hắn sẽ kiện.”
“Không có chữ ký.” Ganimard nói thêm. “Tôi thấy mấy dòng ngắn ngủi này xem chừng chẳng hữu ích đối với chúng ta lắm.”
“Tôi không nghĩ thế đâu, ông Ganimard. Tôi thấy mấy dòng ngắn ngủi này rất thú vị.”
“Tại sao? Tôi không hiểu.”
“Vì những lý do riêng tư của tôi.” Sholmès đáp, với sự dửng dưng ông ta thường xuyên biểu lộ ra trước người đồng nghiệp.
Tàu điện dừng ở đường Château, là bến cuối cùng. Gã đàn ông lặng lẽ xuống tàu, bước đi. Sholmès bám theo gần đến nỗi Ganimard phải phản đối. “Nếu gã ngoảnh nhìn đằng sau, gã sẽ nghi ngờ chúng ta.”
“Gã sẽ không ngoảnh nhìn đâu.”
“Làm sao ông biết?”
“Gã là một đồng đảng của Arsène Lupin, và thực tế gã bước đi với cái cung cách kia, hai tay ung dung đút túi quần, chứng tỏ rằng, thứ nhất, gã biết là gã đang bị bám theo, và thứ hai, gã chẳng thèm sợ.”
“Nhưng tôi nghĩ chúng ta đang theo sát gã quá.”
“Để không tuột mất gã thì không sát quá đâu. Gã tự tin lắm.”
“Ồ! Nhìn kìa! Trước quán cà phê kia có dựng hai chiếc xe đạp của cảnh sát. Nếu tôi gọi họ hỗ trợ thì chúng ta sao tuột mất gã được.”
“Chà, anh bạn của chúng ta xem chừng không lo lắng gì điều đó. Thực tế, gã sẽ đích thân gọi họ hỗ trợ chứ chả đùa.”
“Trời đất!” Ganimard thốt lên. “Gã dám táo tợn thế cơ à.”
Gã đàn ông tiến đến chỗ hai viên cảnh sát đúng lúc họ vừa nhảy lên xe đạp. Sau vài lời trao đổi, gã nhảy lên chiếc xe đạp thứ ba đang dựng dựa vào bức tường quán cà phê, phóng đi vun vút với sự hộ tống của hai viên cảnh sát.
“Ơ! Một, hai, ba, biến mất này!” Sholmès gầm gừ. “Mà với sự trợ giúp của ai, Ganimard? Của hai đồng nghiệp của ông đấy… A! Arsène Lupin có tài tổ chức đáng thán phục! Xe đạp của cảnh sát là để phục vụ hắn!… Tôi đã bảo ông rằng gã kia quá bình tĩnh, quá tự tin mà.”
“Chà.” Ganimard khá bực bội, nói. “Vậy bây giờ chúng ta làm gì? Cười người khác thì dễ dàng thôi! Ai cũng có thể cười được.”
“Nào, nào, đừng cáu! Chúng ta sẽ báo thù. Nhưng, từ nay tới lúc đó, chúng ta phải được tăng cường lực lượng.”
“Folenfant đang đợi tôi cuối đại lộ Neuilly.”
“Chà, hãy đi triệu tập anh ta và gặp lại tôi sau. Tôi sẽ bám theo kẻ chạy trốn.”
Sholmès đi theo dấu bánh xe đạp được để lại hết sức rõ ràng trên lớp bụi đường, vì hai trong số ba chiếc xe sử dụng lốp có các rãnh khía. Rất nhanh chóng, ông ta chắc chắn rằng dấu vết đang dẫn ông ta tới mép sông Seine, và ba người kia đã rẽ theo hướng Bresson rẽ đêm hôm qua. Vì thế, ông ta lại đến đúng vòm cổng ông ta và Ganimard đã nấp, rồi, đi thêm một chút, ông ta phát hiện thấy dấu bánh ba chiếc xe lẫn vào nhau, chứng tỏ là ba người kia đã dừng ở chỗ đó. Ngay đối diện, một mũi đất nhỏ chạy ra sông. Một chiếc thuyền cũ neo ở tận cùng của mũi đất.
Ở chỗ đó, Bresson đã vứt cái gói đi, hay, nói cách khác, đã thả nó xuống. Sholmès bước xuống theo triền sông, thấy triền sông không dốc và mực nước khá nông, nên việc vớt cái gói lên sẽ khá dễ dàng, trừ phi ba người kia đã hành động trước.
“Không, không thể.” Ông ta nghĩ. “Bọn họ không có thời gian. Cùng lắm mới mười lăm phút. Nhưng tại sao bọn họ lại đi đường này?
Một người câu cá ngồi trên thuyền. Sholmès hỏi anh ta: “Cách đây mấy phút anh có trông thấy ba người đàn ông đi xe đạp không?”
Người câu cá ra hiệu bảo không. Nhưng Sholmès vẫn khăng khăng hỏi: “Ba người đàn ông dừng lại trên đường, ngay chỗ bờ sông ấy?”
Người câu cá kẹp chiếc cần câu dưới nách, lấy cuốn sổ ghi chép ra khỏi túi áo khoác, viết lên một trang, xé đưa cho Sholmès. Viên thám tử người Anh sửng sốt giật mình. Ở giữa trang giấy ông ta đang cầm trên tay là một dãy chữ cái giống hệt dãy chữ cái cắt ra từ cuốn sách: C D E H N O P E Z E O – 237.
Người đàn ông tiếp tục câu, đầu đội chiếc mũ rơm to che nắng, áo khoác và áo gi lê để bên cạnh mình. Anh ta chăm chú theo dõi mẩu phao bần buộc vào với dây câu đang nổi lập lờ trên mặt nước.
Tiếp theo là một khoảng im lặng nghiêm trang, đáng khiếp sợ.
“Có phải hắn không?” Sholmès phán đoán, với nỗi băn khoăn gần như đáng thương, rồi sự thật đột ngột hiển hiện rõ ràng. “Có phải hắn không ư? Có phải hắn không ư? Còn kẻ nào khác có thể tiếp tục ngồi kia điềm nhiên như thế, không hề bộc lộ một chút lo lắng, không hề bộc lộ một chút sợ sệt, trước những gì có lẽ sẽ xảy ra. Và còn kẻ nào biết câu chuyện về các chữ cái bí ẩn đó? Alice đã sai người cảnh báo trước với hắn.”
Viên thám tử người Anh thình lình cảm thấy bàn tay của ông ta, bàn tay của chính ông ta, một cách bất giác đang nắm lấy báng khẩu súng lục, và ánh mắt ông ta dán chặt vào lưng người đàn ông, phía dưới cổ chút ít. Một động tác thôi, vở kịch sẽ chấm dứt, cuộc đời kẻ phiêu lưu lạ lùng kia sẽ đi tới kết cục tăm tối.
Người câu cá chẳng nhúc nhích gì.
Sholmès căng thẳng xoay xoay khẩu súng lục, trải qua nỗi ước ao điên cuồng muốn bóp cò và kết thúc tất cả, nhưng sự kinh hoàng của một hành động như thể lại mâu thuẫn với bản chất con người ông ta. Cái chết sẽ là chắc chắn và sẽ kết thúc tất cả.
“Ồ!” Ông ta tự nhủ. “Hãy để cho hắn đứng lên tự vệ. Nếu hắn chẳng làm vậy, thì càng tồi tệ cho hắn. Một giây nữa… và mình bóp cò.”
Nhưng tiếng bước chân đằng sau Sholmès khiến ông ta quay đầu lại. Ganimard đang đến cùng với mấy phụ tá.
Thế là, nhanh chóng thay đổi kế hoạch, Sholmès nhảy lên thuyền, dây neo thuyền bị hành động đột ngột của ông ta rứt đứt. Ông ta vồ lấy người câu cá, giữ chặt anh ta. Họ cùng lăn lông lốc xuống lòng thuyền.
“Ôi, nào!” Lupin kêu lên, vùng vẫy để giải phóng mình khỏi tay Sholmès. “Thế này nghĩa là thế nào? Khi một trong hai chúng ta chiến thắng kẻ còn lại, thì được lợi lộc gì? Ông sẽ không biết phải làm gì với tôi, tôi cũng sẽ không biết phải làm gì với ông. Chúng ta sẽ cứ ở nguyên đây tựa như hai thằng ngốc.”
Hai mái chèo tuột xuống dưới nước. Chiếc thuyền bồng bềnh trôi theo dòng.
“Trời ơi là trời, ông mới nhặng xị làm sao! Một người tuổi ông phải biết nhiều hơn chứ! Ông hành động y như đứa trẻ vậy.”
Lupin thoát được khỏi cái ôm ghì của viên thám tử, ông ta lúc bấy giờ đã cực kỳ điên tiết và sẵn sàng giết người, liền thọc tay vào túi áo khoác. Ông ta buột câu chửi thề: Lupin đã lấy mất khẩu súng lục của ông ta. Rồi ông ta quỳ xuống, cố gắng với lấy một trong hai mái chèo để đưa thuyền quay vào bờ, còn Lupin thì cố gắng với lấy mái chèo kia để đưa thuyền đi xuôi theo con sông.
“Thôi, trôi mất rồi! Tôi không với được.” Lupin nói.
“Nhưng việc đó chẳng thành vấn đề. Dù cho anh với được mái chèo kia đi nữa, tôi vẫn có thể ngăn anh sử dụng nó. Và anh cũng có thể làm như thế đối với tôi. Nhưng, anh thấy đấy, đấy là cái cách mọi việc diễn ra trên thế giới này, chúng ta hành động không vì mục đích hay nguyên nhân nào, nỗ lực của chúng ta là vô ích vì Số Phận định đoạt tất cả. Lúc này, anh có thấy Số Phận ủng hộ anh bạn Lupin không? Ván bài về tay tôi rồi! Tôi đang có thiên thời địa lợi!”
Chiếc thuyền chầm chậm trôi xuôi theo dòng.
“Cẩn thận!” Lupin kêu lên một cách gấp gáp.
Một người đứng trên bờ đang nhắm bắn bằng khẩu súng lục. Lupin chúi xuống. Phát đạn vèo qua, găm xuống mặt nước phía bên kia thuyền. Lupin phá ra cười.
“Chúa phù hộ tôi! Đó là ông bạn Ganimard! Nhưng ông đã hành động rất sai lầm, Ganimard ạ. Ông không có quyền bắn, trừ tình huống tự vệ. Lupin khiến ông bối rối tới mức mất hết bình tĩnh ư?… Nào, cư xử cho phái phép đi, và đừng bắn nữa!… Nếu bắn nữa, ông sẽ bắn trúng ông bạn người Anh của chúng ta đấy.”
Lupin đứng đằng sau Sholmès, quay mặt về phía Ganimard, nói: “Nào, Ganimard, tôi đã sẵn sàng! Hãy nhắm trúng tim ông ta nhé!… Cao hơn!… Hơi sang trái một chút… Ồ! Ông trượt phát ấy rồi… Bắn dở ẹc… Lại đi… Tay ông run lẩy bẩy kìa, Ganimard… Nào, lần nữa… một, hai, ba, bắn!… Trượt rồi!… Trời đất! Chính quyền trang bị cho ông súng đồ chơi hay sao.”
Lupin rút ra khẩu súng lục nòng dài, bắn chẳng cần ngắm. Ganimard đưa tay lên giữ mũ: Viên đạn vừa xuyên qua nó.
“Ông nghĩ gì hả Ganimard? Ồ! Đó là một khẩu súng lục thực sự! Một khẩu súng lục ổ quay chính cống của Anh. Nó thuộc về ông bạn tôi, Herlock Sholmès.”
Lupin vừa cười to vừa ném khẩu súng lục vào bờ. Nó đáp xuống bên chân Ganimard.
Sholmès không giấu được nụ cười thán phục. Khí chất trẻ trung mới tràn trề làm sao! Anh ta mới vui vẻ làm sao! Dường như cái cảm giác đứng trước nguy hiểm khiến anh ta thấy khoái trá, và anh chàng phi thường này chẳng còn mục đích nào khác trong đời ngoài mục đích tìm kiếm những hiểm họa chỉ vì sự thích thú mỗi khi tránh được nó.
Lúc bấy giờ ở hai bên bờ sông đã tụ tập rất đông người. Ganimard và nhân viên của ông ta đuổi theo chiếc thuyền cứ đang chầm chậm bập bềnh trôi xuôi theo dòng. Chắc chắn mười mươi là Lupin sẽ bị bắt.
“Ông bạn.” Lupin quay sang viên thám tử người Anh, nói. “Hãy thú nhận rằng dù có các tất cả số vàng ở Transvaal⦾ thì ông cũng không đánh đổi vị trí hiện tại! Ông lúc này đang ngồi ở hàng ghế đầu tiên của dàn nhạc đấy! Nhưng, trước hết, chúng ta phải trình diễn phần mở màn… sau đó chúng ta có thể nhảy cóc tới hồi thứ năm của vở kịch, là hồi mô tả việc Arsène Lupin bị bắt hoặc trốn thoát. Vì vậy, tôi sẽ hỏi ông một câu đơn giản và tôi đề nghị ông cũng chỉ trả lời đơn giản bằng có hoặc không. Ông có từ bỏ vụ việc này không? Giờ đây, tôi vẫn có thể khắc phục những tổn hại mà ông gây ra, để muộn hơn thì tôi không còn khả năng làm điều đó nữa. Ông có đồng ý thương lượng không?”
“Không.”
Nét mặt Lupin thể hiện sự bực bội, thất vọng. Anh ta tiếp tục: “Tôi khẩn khoản mong ông đồng ý. Tôi khẩn khoản đấy, vì ông hơn là vì tôi. Tôi chắc chắn ông sẽ là người đầu tiên thấy hối tiếc cho sự can thiệp của mình. Lần cuối cùng, có hay không?”
“Không.”
Lupin cúi xuống, gỡ một tấm ván dưới đáy thuyền, và, trong vòng vài phút, làm một việc gì đó Sholmès không hiểu. Rồi anh ta ngồi thẳng dậy bên cạnh Sholmès, nói: “Thưa ông, tôi cho là hôm nay chúng ta ra con sông này với cùng một mục đích: Lấy lại vật mà Bresson ném đi. Về phần tôi, tôi có mời mấy chiến hữu cùng tham gia, và tôi đang chuẩn bị mò thì các chiến hữu của tôi thông báo rằng ông tới. Tôi xin thú nhận rằng tôi chẳng ngạc nhiên trước tin tức ấy, vì hàng giờ tôi đều được báo cáo về những tiến triển trong cuộc điều tra của ông. Đó là việc dễ dàng. Bất cứ động tĩnh gì ở đường Murillo có thể khiến tôi quan tâm, chỉ một hồi chuông điện thoại, thế là tôi được thông báo.”
Lupin ngừng lại. Tấm ván dưới đáy thuyền lúc nãy anh ta gỡ ra đang nổi lên và nước đang tràn vào qua lỗ hổng.
“Quỷ tha ma bắt! Tôi đã không biết cách sửa rồi. Lúc nãy tôi sợ chiếc thuyền cũ kĩ này bị rỉ nước vào.”
Sholmèo nhún vai.
Lupin tiếp tục: “Vậy ông sẽ hiểu là, trong tình hình đó, và biết trước dù có cố gắng tránh tôi cũng chẳng thắng được sự hăm hở muốn bước vào trận chiến của ông, xin cam đoan rằng tôi không hoàn toàn cảm thấy khó chịu phải bắt đầu một cuộc giao tranh mà kết quả đã hết sức chắc chắn, vì tôi đang nắm trong tay tất cả các lá bài chủ. Tôi muốn cuộc gặp gỡ giữa chúng ta được nhiều người chứng kiến nhất có thể, để khắp nơi người ta có thể biết tới thất bại của ông, để một bà Bá tước Crozon hay một ông Nam tước d’Imblevalle khác sẽ chẳng buồn khẩn khoản nhờ ông giúp đỡ họ chiến đấu với tôi nữa. Ngoài ra, thưa ông kính mến…”
Lupin lại ngừng lời, khum hai bàn tay làm thành cái ống nhòm, quét ánh mắt suốt lượt hai bên bờ sông.
“Trời đất! Họ đã thuê một chiếc thuyền tuyệt diệu, một chiến thuyền thực sự, và hãy xem các tay chèo kìa. Trong vòng năm phút, họ sẽ đuổi kịp, và tôi chỉ còn nước thua. Ông Sholmès, một lời khuyên dành cho ông nhé. Hãy bắt tôi, trói tôi lại, giao tôi cho các nhân viên thực thi pháp luật. Kế hoạch đó có khiến ông vừa ý không?… Trừ phi, từ giờ tới lúc ấy, chúng ta bị đắm thuyền, và chúng ta chẳng còn làm được việc gì ngoài việc lập di chúc. Ông nghĩ thế nào?”
Họ nhìn nhau. Sholmès lúc bấy giờ hiểu ra mưu đồ của Lupin: Anh ta đã cố ý làm thuyền thủng. Và nước đang dâng lên. Nước chạm đến đế giày cao cổ của họ rồi. Nước ngập bàn chân họ. Nhưng họ không nhúc nhích. Nước ngập nửa bắp chân họ. Viên thám tử người Anh lấy thuốc lá ra, cuộn một điếu, châm lửa.
Lupin tiếp tục nói: “Nhưng đừng coi lời đề nghị kia là sự thú nhận tội lỗi của tôi. Tôi đầu hàng ông trong một trận đánh mà tôi có thể giành thắng lợi chẳng qua là nhằm tránh một cuộc đấu trên một chiến trường không do tôi tự lựa chọn thôi. Khi hành động như thế, tôi nhận ra thực tế Sholmès là kẻ thù duy nhất khiến tôi thấy sợ. Tôi tận dụng cơ hội này để nói với ông những điều này vì Số Phận đã ban cho tôi cái hân hạnh được chuyện trò cùng ông. Tôi chỉ tiếc nuối mỗi một việc là cuộc chuyện trò của chúng ta lại diễn ra trong lúc chúng ta rửa chân… Tôi phải thú nhận rằng hoàn cảnh này thật thiếu tính trang trọng… Tôi vừa nói cái gì nhỉ? Rửa chân à? Còn tồi tệ hơn ấy chứ.”
Nước đã dâng lên đến tấm ván họ ngồi, và thuyền đang từ từ chìm.
Sholmès cứ hút thuốc, vẻ thản nhiên nhìn ngắm quang cảnh. Chắc chắn, trong khi mặt đối mặt với gã đàn ông mặc dù bị các mối nguy hiểm đe dọa, bị đám đông bao vây, bị cả một đội cảnh sát truy đuổi, vẫn giữ được sự bình thản và hài hước, thì chắc chắn Sholmès cũng sẽ không biểu lộ dấu hiệu căng thẳng dù là nhỏ nhất nào.
Mỗi người bọn họ trông đều như thể muốn nói: Chả lẽ những chuyện vặt vãnh như vậy cũng khiến người ta lo lắng sao? Chẳng phải ngày nào cũng có kẻ chết đuối dưới sông sao? Một việc như vậy cũng là sự kiện đáng quan tâm chú ý đặc biệt sao? Một người nói, trong lúc một người mơ màng, cả hai che giấu lòng kiêu hãnh bị tổn thương dưới cái mặt nạ dửng dưng, lãnh đạm.
Một phút nữa, và chiếc thuyền sẽ chìm. Lupin tiếp tục màn độc thoại: “Quan trọng là biết chúng ta chìm trước hay sau khi các chiến sĩ thực thi pháp luật tới. Đó là câu hỏi chính yếu. Về vụ đắm thuyền của chúng ta, đó là cái kết phải được dự tính. Nào, thưa ông, đã đến thời khắc chúng ta lập di chúc. Tôi trao lại toàn bộ tài sản của mình cho Herlock Sholmès, công dân nước Anh, hưởng lợi và sử dụng. Nhưng, trời đất, những chiến sĩ thực thi pháp luật kia tới mới nhanh làm sao! Ồ! Những anh bạn can đảm! Thật thú vị khi quan sát họ. Hãy quan sát sự chính xác của các tay chèo kìa! Ồ, có phải là anh không, trung sĩ Folenfant? Hoan hô! Ý tưởng về một chiến thuyền là ý tưởng tuyệt vời đấy. Tôi xin tiến cử anh với thượng cấp của anh nhé, trung sĩ Folenfant… Anh ao ước được thưởng huân chương chăng? Anh sẽ được. Còn người đồng chí Dieuzy của anh, anh ta đâu?… Ồ, phải, tôi cho là tôi trông thấy anh ta đang đứng ở bờ trái sông, dẫn đầu một trăm người dân địa phương. Như vậy, nếu tôi không bị đắm thuyền, tôi sẽ bị Dieuzy và những người dân địa phương bắt giữ ở bờ trái, hoặc sẽ bị Ganimard và quần chúng nhân dân của Neuilly bắt giữ ở bờ phải. Một tình thế tiến thoái lưõng nan!”
Chiếc thuyền tiến vào một xoáy nước. Nó xoay tròn. Sholmès hai tay túm lấy hai cọc chèo. Lupin bảo ông ta: “Thưa ông, ông nên cởi áo khoác ra. Ông sẽ thấy khi không mặc áo khoác bơi sẽ dễ dàng hơn. Không à? Ông không chịu cởi à? Thế thì tôi sẽ mặc áo khoác của mình vào vậy.”
Lupin mặc áo khoác, cài khuy cẩn thận y như Sholmès, rồi nói: “Ông mới khiếm nhã làm sao! Và thật tiếc ông quá ương ngạnh trong vụ việc này, trong vụ việc mà lẽ dĩ nhiên ông đã thể hiện được sức mạnh, nhưng, ôi, một cách quá vô ích! Thực sự là ông đã làm hại tới cái thiên tài của ông…”
“Anh Lupin.” Sholmès đang im lặng bỗng dưng ngắt lời. “Anh nhiều lời quá, và anh thường xuyên phạm phải sai lầm, để lộ bí mật khi cứ huyên tha huyên thuyên.”
“Đó là lời chỉ trích nặng nề.”
“Vì thế, tuy anh không nhận ra, nhưng vừa một lúc trước anh đã cung cấp cho tôi thông tin tôi muốn biết đấy.”
“Cái gì? Ông muốn biết thông tin nào đó mà chẳng bảo tôi ư?”
“Tôi đâu có cơ hội hỏi anh… anh đã tự nguyện cung cấp. Trong vòng ba tiếng đồng hồ, tôi sẽ có thể trao chìa khóa mở cửa bí mật cho ông d’Imblevalle. Đó là câu trả lời duy nhất…”
Sholmès không kịp nói hết câu. Chiếc thuyền chìm đột ngột, kéo theo cả hai người đàn ông. Nó lại lập tức nổi lên, nhưng ở tình trạng lật úp. Sau phút lặng đi căng thẳng, hai bên bờ nhao nhao tiếng hét. Rồi có những tiếng hét mới: Một trong hai người bị đắm thuyền trồi lên khỏi mặt nước.
Đó là Herlock Sholmès. Ông ta là tay bơi cừ, và với những sải bơi dài, mạnh mẽ, đang tiến về phía chiếc thuyền của Folenfant.
“Can đảm nào, ông Sholmès.” Folenfant hét. “Có chúng tôi đây. Tiếp tục phát huy đi ạ… Chúng tôi sẽ kéo ông lên… Chút nữa, ông Sholmès… Hãy bắt lấy sợi thừng.”
Viên thám tử người Anh tóm lấy sợi thùng họ quăng ra cho ông ta. Nhưng trong khi họ đang lôi ông ta lên thuyền, ông ta nghe thấy một giọng đằng sau mình nói: “Chìa khóa mở cửa bí mật, thưa ông, vâng, ông sẽ có nó. Tôi kinh ngạc thấy tới lúc này ông vẫn chưa có nó được. Rồi sao? Nó sẽ đem lại lợi lộc gì cho ông? Tới lúc ấy ông sẽ thua trận…”
Ngồi giạng chân thoải mái trên chiếc thuyền bị lật úp, Lupin tiếp tục nói với điệu bộ nghiêm trang, như thể anh ta hy vọng thuyết phục được địch thủ của mình: “Ông phải hiểu, ông Sholmès thân mến, chẳng cần làm gì cả, tuyệt đối chẳng cần. Ông sẽ thấy mình ở vào tình thế tệ hại…”
“Đầu hàng đi, Lupin!” Folenfant hét.
“Anh là đồ vô giáo dục, Folenfant. Anh cắt lời tôi. Tôi đang nói…”
“Đầu hàng đi, Lupin!”
“Ôi! Trời ơi là trời! Trung sĩ Folenfant, người ta chỉ đầu hàng khi gặp nguy hiểm. Chắc chắn anh không vờ vịt bảo rằng tôi đang gặp nguy hiểm đấy chứ?”
“Lần cuối cùng, Lupin, tôi kêu gọi anh đầu hàng.”
“Trung sĩ Folenfant, anh không định giết tôi, có lẽ anh muốn bắn cho tôi bị thương vì anh sợ biết đâu tôi trốn thoát. Nhưng nhỡ lại là vết tử thương thì sao! Hãy nghĩ xem anh sẽ thấy hối tiếc thế nào! Nó sẽ khiến anh đau xót khi về già đấy.”
Súng nổ.
Lupin lảo đảo, bám lấy sống thuyền một đỗi, rồi tuột tay và biến mất dưới làn nước sông.
Những sự kiện bên trên diễn ra chính xác lúc ba giờ. Đúng sáu giờ, như đã báo trước, trong chiếc quần quá ngắn và chiếc áo khoác quá chật mượn của ông chủ quán trọ ở Neuilly, sơ mi vải flannel và mũ lưỡi trai, Herlock Sholmès bước vào cái khuê phòng trên đường Murillo, sau khi đã nhắn ông bà d’Imblevalle rằng mình muốn thực hiện một cuộc thẩm vấn.
Họ thấy ông ta đang bước tới bước lui trong phòng. Ông ta trông thật buồn cười trong bộ đồ kỳ lạ, tới mức họ không nén cười được. Với dáng vẻ trầm ngâm, hai vai gập về phía trước, ông ta đi như người máy từ cửa sổ đến cửa ra vào, rồi từ cửa ra vào đến cửa sổ, mỗi lần đều cùng số bước chân và đều cùng một cung cách.
Sholmès dừng lại, cầm lên một vật trang trí nhỏ, xem xét một cách máy móc, rồi lại tiếp tục bước. Cuối cùng, đứng vững trước hai vợ chồng, ông ta hỏi: “Cô gia sư có nhà không?”
“Có, cô ấy đang ở ngoài vườn với lũ trẻ.”
“Tôi muốn cô gia sư có mặt trong cuộc thẩm vấn này.”
“Liệu có cần thiết?”
“Thưa ông, ông hãy kiên nhẫn một chút. Từ những thực tế tôi sắp sửa đưa ra cho ông, ông sẽ thấy sự có mặt của cô ta là cần thiết.”
“Được. Suzanne, em gọi cô ấy nhé?”
Phu nhân d’Imblevalle đứng dậy, đi ra ngoài, và gần như lập tức quay vào cùng Alice Demun. Cô gia sư, hơi xanh xao hơn bình thường, đứng dựa vào một chiếc bàn, thậm chí không buồn hỏi tại sao mình bị gọi. Sholmès không nhìn cô, nhưng đột ngột quay sang ông d’Imblevalle, nói với giọng không chấp nhận lời đáp trả: “Thưa ông, sau vài ngày điều tra, tôi phải nhắc lại câu tôi đã nói khi mới tới: Cây đèn Do Thái bị một người sống trong ngôi nhà này đánh cắp.”
“Tên của kẻ trộm?”
“Tôi biết.”
“Chứng cứ?”
“Tôi có đầy đủ chứng cứ chứng minh sự việc.”
“Nhưng chúng tôi yêu cầu nhiều hơn thế. Chúng tôi muốn lấy lại vật mất cắp.”
“Cây đèn Do Thái ấy à? Nó đang trong tay tôi.”
“Còn chuỗi vòng đeo cổ ngọc mắt mèo? Chiếc hộp đựng thuốc lá hít?”
“Chuỗi vòng đeo cổ ngọc mắt mèo, chiếc hộp đựng thuốc lá hít, và tất cả các vật bị lấy mất ở vụ trộm thứ hai đang trong tay tôi.”
Sholmès hài lòng với cuộc đối đáp đầy kịch tính này. Ông ta cũng thích thú thông báo các chiến thắng của mình với cung cách ngắn gọn ấy. Ông Nam tước và vợ ông ta kinh ngạc, nhìn Sholmès vẻ thầm tò mò, đó chính là lời tán dương nhiệt liệt nhất.
Ông ta thuật lại cặn kẽ cho vợ chồng ông Nam tước những gì mình thực hiện trong ba ngày vừa qua. Ông ta nói về việc khám phá ra cuốn sách dạy bảng chữ cái, viết lên một tờ giấy cái câu được tạo thành bởi các chữ cái bị mất, rồi tới việc Bresson đi ra bờ sông, việc con người gian hùng này tự tử, và, cuối cùng, tới cuộc chiến đấu với Lupin, vụ đắm thuyền, việc Lupin biến mất. Khi ông ta dừng lời, ông Nam tước hạ giọng nói: “Bây giờ thì ông đã cho chúng tôi biết tất cả, trừ tên của kẻ trộm. Vậy ông buộc tội ai?”
“Tôi buộc tội kẻ đã cắt các chữ cái ở cuốn sách dạy bảng chữ cái, và đã liên lạc với Arsène Lupin bằng những chữ cái này.”
“Làm sao ông biết việc liên lạc ấy được thực hiện với Arsène Lupin?”
“Chính Lupin cung cấp thông tin cho tôi.”
Sholmès đưa ra một mẩu giấy ướt nhoẹt, nhàu nát. Đó là trang Lupin đã xé từ cuốn sổ ghi chép của mình, và viết những chữ cái kia.
Sholmès nói với vẻ hài lòng: “Ông sẽ nhận ra rằng hắn không bắt buộc phải đưa cho tôi mẩu giấy ấy, qua đó tiết lộ danh tính mình. Chỉ vì cái thói trẻ con mà hắn đã trao cho tôi chính xác thông tin tôi muốn có.”
“Nó là gì vậy?” Ông Nam tước hỏi. “Tôi không hiểu.”
Sholmès lấy bút chì viết lại các chữ cái và chữ số. C D E H N O P R Z E O – 237.
“Ồ?” Ông Nam tước nói. “Đó là các chữ cái và chữ số lúc nãy chính ông đã viết ra cho chúng tôi xem.”
“Không. Nếu ông nhìn cẩn thận như tôi đã nhìn, ông sẽ thấy ngay cụm này không giống cụm lúc nãy.”
“Chúng khác nhau ở mặt nào?”
“Cụm từ này có thêm hai chữ cái, một chữ E và một chữ O.”
“Thật vậy. Tôi không để ý.”
“Kết hợp hai chữ cái này với chữ C và chữ H, hai chữ cái còn lại sau khi chúng ta tạo được từ répondez rồi, ông sẽ đồng ý với tôi rằng từ duy nhất có khả năng đúng là từ écho⦾.”
“Như thế nghĩa là thế nào?”
“Tôi đã khám phá được toàn bộ câu chuyện về mối liên hệ giữa Arsène Lupin và kẻ đồng lõa của hắn.”
Sholmès đưa ra bảy tờ báo, mở đến trang tư, chỉ những dòng sau đây:
Ars. Lup. Phu nhân khẩn cầu được bảo vệ. 540.
540. Đang đợi tình tiết cụ thể. A.L.
A.L. Bị kẻ thù kiểm soát. Thua mất.
540. Hãy viết địa chỉ. Sẽ tiến hành điều tra.
A.L. Murillo.
540. Công viên. Ba giờ. Hoa violet.
237. Hiểu. Thứ Bảy. Sẽ là sáng Chủ nhật. Công viên.
“Ông gọi đó là toàn bộ câu chuyện!” Ông Nam tước thốt lên.
“Phải, và nếu ông chịu khó lắng nghe tôi mấy phút, tôi cho rằng tôi có thể thuyết phục ông. Đầu tiên, một phụ nữ lấy biệt hiệu là 540 khẩn cầu được Arsène Lupin bảo vệ. Đáp lại, hắn đề nghị cung cấp các tình tiết cụ thể. Người phụ nữ trả lời rằng cô ta đang bị kẻ thù kiểm soát và cô ta thua mất nếu không có ai tới giúp đỡ. Kẻ thù ở đây chắc chắn chính là Bresson. Lupin còn ngờ vực, chưa mạo hiểm ấn định một cuộc gặp gỡ với người phụ nữ xa lạ, đòi cung cấp địa chỉ và dự định điều tra. Người phụ nữ lưỡng lự suốt bốn ngày, hãy nhìn ngày tháng đây. Cuối cùng, vì Bresson đe dọa, vì tình thế bắt buộc, cô ta đành cung cấp tên phố là Murillo. Hôm sau, Arsène Lupin thông báo hắn sẽ có mặt tại công viên Monceau lúc ba giờ và yêu cầu người trao đổi thông tin chưa quen biết kia cài hoa violet để nhận diện. Rồi việc trao đổi thông tin bị ngắt quãng trong tám ngày. Bây giờ thì Arsène Lupin và người phụ nữ chẳng cần liên lạc qua báo nữa vì họ đã gặp gỡ hoặc viết thư trực tiếp cho nhau. Kế hoạch được sắp xếp theo cách này: Để thỏa mãn những yêu cầu của Bresson, người phụ nữ sẽ đánh cắp cây đèn Do Thái. Ngày thực hiện chưa ấn định. Người phụ nữ kia, vì tính thận trọng, trao đổi thông tin bằng cách cắt các chữ cái từ một cuốn sách, quyết định ngày thực hiện là thứ Bảy và đề nghị thêm: Hãy hồi âm trên tờ Écho 237. Lupin hồi âm rằng mình đã hiểu và sẽ có mặt tại công viên vào sáng Chủ nhật. Sáng Chủ nhật, vụ trộm xảy ra.”
“Đó thực sự là một chuỗi chứng cứ gián tiếp tuyệt vời, tất cả các mắt xích đều hoàn chỉnh.” Ông Nam tước nói.
“Vụ trộm đã được thực hiện.” Sholmès tiếp tục. “Sáng Chủ nhật, người phụ nữ đi ra ngoài, nói với Lupin việc mình làm, và mang cây đèn Do Thái tới cho Bresson. Tất cả đã diễn ra chính xác như Lupin dự đoán. Các nhân viên thực thi pháp luật, bị đánh lừa bởi ô cửa sổ mở, bốn cái lỗ trên nền đất và hai vết xước trên lan can ban công, lập tức đưa ra giả thuyết là kẻ trộm đã đột nhập từ bên ngoài vào. Người phụ nữ bình an vô sự.”
“Vâng, tôi phải thú thực rằng giả thuyết ông đưa ra hợp lý lắm.” Ông Nam tước nói. “Nhưng còn vụ trộm thứ hai.”
“Vụ trộm thứ hai xuất phát từ vụ trộm thứ nhất. Các tờ báo đã tường thuật việc cây đèn Do Thái biến mất như thế nào, và có kẻ nảy ra kế hoạch tái diễn vụ trộm, lấy nốt những gì còn lại. Lần này, chẳng phải một vụ trộm giả vờ, mà là một vụ trộm thực sự, một kẻ đào tường khoét ngạch chính cống, đem theo thang và các dụng cụ khác.”
“Đương nhiên là Lupin…”
“Không. Lupin không hành động ngu ngốc thế. Hắn không nổ súng bắn người vì lý do vặt vãnh đâu.”
“Vậy ai?”
“Chắc chắn là Bresson, và người phụ nữ bị gã đe dọa không biết điều này. Bresson là kẻ đã đột nhập vào đây, Bresson là kẻ bị tôi truy đuổi, Bresson là kẻ bắn Wilson tội nghiệp.”
“Ông chắc chắn chứ?”
“Tuyệt đối chắc chắn. Hôm qua, một trong những kẻ đồng lõa với gã đã viết thư cho gã, trước khi gã tự sát. Bức thư xác nhận kẻ đồng lõa này và Lupin chưa thương lượng xong việc trả lại tất cả các vật bị ăn trộm ở nhà ông. Lupin đòi trả lại tất cả, vật đầu tiên (tức là cây đèn Do Thái) cũng như tất cả các vật bị lấy mất trong vụ trộm thứ hai. Ngoài ra, Lupin đang canh chừng Bresson. Khi Bresson từ sông trở về nhà đêm hôm qua, một người của Lupin cũng bám theo gã giống chúng tôi.”
“Bresson ra sông làm gì?”
“Được cảnh báo về những tiến triển trong việc điều tra của tôi…”
“Được cảnh báo ư? Ai cảnh báo?”
“Vẫn là người phụ nữ kia, cô ta thực sự sợ rằng nếu cây đèn Do Thái bị phát hiện thì việc làm táo bạo của cô ta cũng sẽ bị phát hiện. Do đó, sau khi được cảnh báo, Bresson đã gói ghém tất cả những thứ có thể khiến gã thân bại danh liệt và ném xuống một chỗ mà gã nghĩ sẽ có thể lấy lại sau khi nguy hiểm qua đi. Chắc chắn sau khi trở về, bị Ganimard và tôi bám theo, những tội lỗi khác cắn rứt lương tâm gã ghê gớm tới mức gã hoảng loạn, tự sát.”
“Nhưng cái gói đựng những gì?”
“Cây đèn Do Thái và các vật trang trí khác của ông.”
“Vậy thì chúng đang không ở trong tay ông.”
“Ngay sau khi Lupin biến mất, tôi lợi dụng vụ tắm táp do hắn ép buộc, di chuyển tới vị trí Bresson đã lựa chọn. Ở đó, tôi tìm thấy các đồ vật bị đánh cắp được đựng trong túi vải lanh bám đầy đất cát. Chúng đang nằm kia, trên bàn.”
Ông Nam tước lẳng lặng cắt dây, xé toạc lớp vải lanh ướt át, lôi cây đèn ra, vặn một con ốc dưới chân đèn, tách bầu đèn làm đôi, và ông ta trông thấy con quái vật trong thần thoại Hy Lạp bằng vàng, gắn ngọc đỏ và ngọc lục bảo.
Nó nguyên vẹn, không sứt mẻ gì.
Tuy bề ngoài có vẻ tự nhiên và các sự kiện đơn giản là đã được trình bày lần lượt, tình huống ấy chứa đựng một cái gì đó hết sức bi kịch. Nó là lời buộc tội chính thức, trực tiếp, chẳng thể bác bỏ đối với cô gia sư, mà Sholmès ném ra qua từng từ ngữ. Nó còn là sự im lặng đầy ấn tượng của Alice Demun nữa.
Khi lời buộc tội càng lúc càng thêm mạnh mẽ, phũ phàng, các tình tiết dần dần chồng chất, không một thớ cơ trên gương mặt cô động đậy, không một chút ghê tởm hay khiếp sợ nào làm giảm vẻ điềm tĩnh trong cặp mắt trong trẻo. Cô nghĩ gì? Và nhất là cô sẽ nói gì vào thời khắc trang nghiêm khi cô cần phải nói, cần phải bảo vệ mình, rứt đứt sợi xích chứng cứ Herlock Sholmès đã thật khéo léo quấn xung quanh cô?
Cái thời khắc ấy tới rồi, nhưng cô gái vẫn im lặng.
“Hãy nói đi! Hãy nói đi!” Ông d’Imblevalle kêu lên.
Cô gái nín thinh. Vì vậy ông ta năn nỉ: “Hãy nói một lời minh oan cho cô. Hãy nói một lời phủ nhận, và tôi sẽ tin cô.”
Cô dứt khoát không nói.
Ông Nam tước bước tới bước lui trong tình trạng bị kích động. Rồi quay sang Sholmès, ông ta bảo: “Không, thưa ông, tôi không thể tin, tôi không tin. Đó là những tội lỗi không thể xảy ra được! Việc này ngược lại với tất cả những gì tôi biết và với tất cả những gì tôi từng chứng kiến trong năm qua. Không, tôi không thể tin.”
Ông ta đặt tay lên vai viên thám tử người Anh, nói: “Nhưng thưa ông, bản thân ông, ông có tuyệt đối chắc chắn rằng mình đúng không?”
Sholmès ngập ngừng, kiểu một người bị hỏi độp một cái, không thể trả lời ngay. Rồi ông ta mỉm cười, nói: “Chỉ con người tôi vừa buộc tội, nhờ vị trí của cô ta trong ngôi nhà này, mới biết bên trong cây đèn Do Thái có món trang sức gắn đá quý tuyệt diệu ấy.”
“Tôi không thể tin được.” Ông Nam tước lặp lại.
“Hãy hỏi cô ta.”
Vì cô gái đã khiến ông ta tin tưởng một cách mù quáng, đó thực sự là việc ông ta đáng lẽ sẽ không làm. Nhưng ông ta chẳng thể kiềm lòng hơn nữa. Ông ta tiến đến chỗ cô gái, nhìn vào mắt cô, nói: “Là cô ư, thưa cô? Là cô đã lấy món trang sức ấy ư? Là cô đã trao đổi thư từ với Arsène Lupin và tiến hành ăn trộm ư?”
“Là tôi, thưa ông.” Cô gái đáp.
Cô không hề nhìn xuống. Không một chút xấu hổ hay khiếp sợ nào biểu hiện trên gương mặt cô.
“Có thể vậy ư?” Ông d’Imblevalle lẩm bẩm. “Tôi chẳng bao giờ tin được. Trên đời này tôi có nghi ngờ ai thì nghi ngờ chứ không nghi ngờ cô. Cô đã hành động ra sao?”
“Tôi đã hành động chính xác như ông Sholmès mô tả. Đêm thứ Bảy, tôi vào khuê phòng, lấy cây đèn, và sáng hôm sau tôi mang nó tới… cho người đàn ông ấy.”
“Không.” Ông Nam tước nói. “Điều cô giả vờ như mình đã làm là điều không thể.”
“Tại sao không thể ạ?”
“Vì sáng hôm sau tôi thấy cửa khuê phòng còn cài then.”
Cô gái đỏ bừng mặt, nhìn Sholmès như thể để hỏi ý kiến. Sholmès kinh ngạc trước sự lúng túng của cô. Cô chẳng biết nói gì ư? Lời thú tội đã xác nhận những gì Sholmès tường thuật về vụ trộm cây đèn Do Thái chỉ để che đậy một sự dối trá hay sao?
Ông Nam tước tiếp tục: “Cửa khóa. Tôi thấy nó ở tình trạng y như lúc tôi rời khỏi khuê phòng đêm hôm trước. Nếu cô vào bằng cửa đó, như cô đang làm ra vẻ thế, thì phải có người mở nó cho cô từ bên trong, tức là từ khuê phòng hoặc từ phòng vợ chồng tôi. Nào, không có ai trong hai căn phòng này… không có ai trừ vợ tôi và tôi.”
Sholmès cúi đầu, hai bàn tay ôm lấy mặt che giấu cảm xúc. Một tia sáng đột ngột lóe lên trong tâm thức ông ta, khiến ông ta giật mình và lo lắng quá đỗi. Ông ta đã khám phá ra tất cả, tựa hồ màn sương dày đặc bất chợt được vén lên và người ta trông thấy rõ ràng toàn bộ quang cảnh buổi sớm. Ông ta vừa bực bội vừa xấu hổ, vì những suy luận và giả thuyết của ông ta hoàn toàn sai lầm.
Alice Demun vô tội!
Alice Demun vô tội. Nhận định đó giải thích cho cảm giác bối rối xuất hiện trong Sholmès kể từ lúc ông ta bắt đầu hướng những lời buộc tội kinh khủng vào cô gái trẻ. Bây giờ thì ông ta đã nhìn ra sự thật, ông ta đã biết được sự thật. Mấy giây trôi qua, ông ta ngẩng đầu, nhìn phu nhân d’Imblevalle với vẻ tự nhiên nhất có thể. Bà ta trông xanh xao, nét xanh xao khác thường trùm lên người ta khi người ta ở vào những thời khắc ác nghiệt nhất của cuộc đời. Hai bàn tay mà bà ta cố gắng giấu đi cứ run bần bật như thể mắc chứng liệt rung.
“Một phút nữa thôi.” Sholmès tự nhủ. “Bà ta sẽ để lộ sự thật.”
Ông ta đứng vào giữa hai vợ chồng, mong ngăn chặn được nguy cơ khủng khiếp, vì sự sai lầm của ông ta, lúc bấy giờ đang đe dọa họ. Nhưng, nhìn ông Nam tước, ông ta bàng hoàng đến tận tâm can. Sự hình dung đáng sợ kia đã hiển hiện trong tâm trí ông d’Imblevalle. Cùng một ý nghĩ đã hình thành trong đầu óc người chồng. Ông ta cũng đã hiểu! Ông ta cũng đã nhận ra sự thật!
Alice Demun tuyệt vọng quăng mình vào sự thật phũ phàng, hòng ngăn nó lại. Cô nói: “Thưa ông, ông đúng đấy ạ. Tôi nhầm. Tôi không vào qua cửa này. Tôi từ vườn lọt vào tiền phòng… bằng thang.”
Đó là nỗ lực cuối cùng của sự tận tâm chân thực. Nhưng là nỗ lực vô ích! Lời lẽ nghe giả dối. Giọng nói không có sức thuyết phục. Cô gái tội nghiệp chẳng còn ánh mắt trong trẻo, can đảm và vẻ ngây thơ tự nhiên đã khiến người ta cảm thấy hết sức đáng tin tưởng. Lúc bấy giờ, cô cúi đầu khuất phục.
Sự im lặng trở nên đầy đau đớn. Phu nhân d’Imblevalle chờ đợi động thái tiếp theo của chồng, lòng tràn ngập nỗi lo sợ. Ông Nam tước có vẻ đang chiến đấu với mối nghi ngờ đáng sợ, như thể ông ta chẳng cam tâm phá vỡ hạnh phúc. Cuối cùng, ông ta bảo vợ: “Hãy nói đi! Giải thích đi!”
“Em không có gì mà nói với anh cả.” Bà ta đáp lí nhí, nét mặt nhăn nhúm lại vì đau khổ.
“Vậy là… cô gia sư…”
“Cô gia sư đã cứu em… vì tận tâm… vì yêu mến… và đã tự buộc tội mình.”
“Cứu em khỏi cái gì? Khỏi ai?”
“Khỏi người đàn ông đó.”
“Bresson ư?”
“Vâng. Anh ta đe dọa, làm em phải sống trong sự sợ hãi… Em gặp anh ta tại nhà một người bạn… và em đã dại dột nghe lời anh ta. Ôi! Không có gì mà anh không thể tha thứ. Nhưng em đã viết cho anh ta hai bức thư… hai bức thư anh sẽ được đọc… Em phải chuộc lại chúng… Anh biết là bằng cách nào… Ôi! Hãy xót thương em!… Em đã đau khổ vô cùng!”
“Cô! Cô! Suzanne!”
Ông Nam tước giơ hai nắm đấm lên, sẵn sàng đánh vợ, sẵn sàng giết vợ. Nhưng rồi ông ta lại buông hai tay xuống, lẩm bẩm: “Cô, Suzanne… Cô!… Có thể vậy ư?”
Bằng những câu ngắn ngủi, rời rạc, phu nhân d’Imblevalle thuật lại câu chuyện đầy đau đớn, việc bà ta bàng hoàng nhận ra sự bỉ ổi ở gã đàn ông kia, sự ăn năn hối hận, sự sợ hãi của bà ta. Bà ta cũng nói tới việc Alice Demun đã hết lòng tận tụy, đã thấu hiểu nỗi muộn phiền của bà chủ, khiến bà tin tưởng mà thổ lộ mọi điều, đã gửi thư cho Lupin, và đã bày mưu thực hiện vụ trộm để cứu bà chủ khỏi Bresson.
“Cô, Suzanne, cô.” Ông d’Imblevalle nhắc đi nhắc lại, cúi đầu đầy đau đớn, tủi hổ. “Làm sao cô có thể?”
Cùng buổi tối hôm đó, chiếc tàu thủy hơi nước Thành London tuyến Calais – Dover từ từ lướt đi giữa sóng yên biển lặng. Trời tối thẫm, gió chỉ hơi hiu hiu. Phần lớn hành khách đã trở về các cabin riêng, trừ vài người, là những người dũng cảm hơn, vẫn đang dạo chơi trên boong hoặc ngủ trên những chiếc ghế xích đu lớn, cuộn mình trong những tấm mền du lịch. Người ta có thể trông thấy, đây đó, đốm lửa của một điếu xì gà, và người ta có thể nghe thấy, lẫn trong tiếng gió rì rào nhè nhẹ, những giọng nói mơ hồ, thận trọng hạ xuống cho hòa hợp với cái im ắng vô cùng của đêm.
Một trong số các hành khách, nãy giờ cứ bước tới bước lui trên boong, dừng lại trước mặt một cô gái đang nằm trên chiếc ghế dài, chăm chú nhìn cô, và, khi cô hơi động đậy, ông ta nói: “Cô Alice, tôi tưởng cô đang ngủ.”
“Không, ông Sholmès, tôi không buồn ngủ. Tôi đang suy nghĩ thôi.”
“Suy nghĩ về cái gì? Nếu tôi dám đánh bạo hỏi?”
“Tôi suy nghĩ về phu nhân d’Imblevalle. Bà ấy hẳn là rất bất hạnh. Cuộc đời bà ấy bị hủy hoại rồi.”
“Ồ! Không, không.” Sholmès vội vã đáp. “Sai lầm của bà ấy đâu phải sai lầm nghiêm trọng. Ông d’Imblevalle sẽ tha thứ và quên đi sự việc. Sao, thậm chí trước khi chúng ta rời khỏi đó, cách cư xử của ông ấy đối với bà ấy cũng đã nhẹ nhàng rồi.”
“Có thể… Nhưng ông ấy sẽ còn nhớ lâu… và bà ấy sẽ còn chịu nhiều khổ sở.”
“Cô yêu thương bà ấy?”
“Rất nhiều. Chính tình yêu của tôi đối với bà ấy đã cho tôi sức mạnh mỉm cười khi tôi đang run rẩy vì sợ hãi, đã cho tôi can đảm nhìn trực diện ông khi tôi những muốn trốn đi để ông không trông thấy.”
“Và cô ân hận khi rời bỏ bà ấy?”
“Phải, rất ân hận. Tôi không có họ hàng thân thích hay bạn bè gì ngoài bà ấy.”
“Cô sẽ có bạn bè.” Viên thám tử người Anh nói, mủi lòng trước nỗi muộn phiền của cô gái. “Tôi đã hứa như thế. Tôi có những người họ hàng… và chút ít thế lực. Tôi xin cam đoan rằng cô sẽ không có lý do gì để hối tiếc khi sang Anh.”
“Có lẽ là thế, thưa ông, nhưng dù gì thì phu nhân d’Imblevalle cũng không ở đó.”
Herlock Sholmès tiếp tục dạo chơi trên boong. Mấy phút sau, ông ta ngồi xuống gần người bạn đồng hành của mình, nhồi tẩu, quẹt mất bốn que diêm mà chưa châm lửa được. Rồi, vì chẳng còn que diêm nào, ông ta đứng dậy hỏi người thanh niên ngồi gần ông ta: “Phiền anh cho tôi xin que diêm.”
Người thanh niên mở hộp, quẹt một que diêm. Ánh lửa soi sáng khuôn mặt anh ta. Sholmès nhận ra đó chính là Arsène Lupin.
Nếu viên thám tử người Anh không thể hiện một động tác ngạc nhiên, tuy cực kỳ khó thấy, thì Lupin đã nghĩ Sholmès biết tới sự hiện diện của anh ta trên con tàu này rồi. Nhưng ông ta chế ngự tình cảm mới tài tình làm sao và cử chỉ ung dung mới tự nhiên làm sao, khi ông ta chìa bàn tay ra cho đối thủ.
“Sức khỏe thể nào, anh Lupin?”
“Hay quá!” Lupin thốt lên, không kìm được tiếng kêu đầy ngưỡng mộ trước sự điềm tĩnh của viên thám tử người Anh.
“Hay quá! Mà tại sao?”
“Tại sao ư? Tại vì tôi xuất hiện trước ông y như một bóng ma, chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi ông trông thấy tôi chết đuối dưới sông Seine rồi, và nhờ sự kiêu hãnh, một phẩm chất đích thực của người Anh, ông không mảy may bộc lộ chút ngạc nhiên nào. Ông chào tôi cứ như một sự đương nhiên vậy. Ồ! Tôi xin nhắc lại: Hay quá! Thật là đáng khâm phục!”
“Điều đó có gì mà đặc biệt. Nhìn cái cách anh rời khỏi thuyền, tôi đã biết rất rõ là anh tự ý rơi thôi, và viên đạn chẳng trúng anh.”
“Và ông bỏ đi không cần biết chuyện gì xảy ra cho tôi ư?”
“Chuyện gì xảy ra cho anh ư? Sao, tôi biết chứ. Trong vòng nửa dặm, có ít nhất năm trăm người đang đứng ở hai bên bờ sông. Nếu anh thoát chết, anh chắc chắn cũng sẽ bị bắt.”
“Nhưng tôi đang có mặt tại đây.”
“Anh Lupin, có hai người trên đời này không bao giờ khiến tôi phải ngạc nhiên. Thứ nhất, là bản thân tôi, và thứ hai, là anh.”
Hiệp ước hòa bình đã được ký kết.
Cho dù Sholmès có không chiến thắng trong cuộc giao tranh với Arsène Lupin, c