← Quay lại trang sách

Phần II - Cây đèn Do Thái Chương 1 -

Herlock Sholmès và Wilson đang ngồi trong hai chiếc ghế bành êm ái trước lò sưởi, chân duỗi dài về phía hơi ẩm dễ chịu của ngọn lửa than cốc bập bùng.

Tẩu thuốc lá của Sholmès, một chiếc tẩu ngắn bằng rễ thạch nam bịt bạc, đã tắt. Ông ta gõ hết tàn ra, nhồi tẩu thuốc mới, châm lửa, kéo vạt chiếc áo choàng mặc nhà phủ qua đầu gối, phả khói mù mịt. Khói làm thành nhiều vòng tròn thẫm tối, bay lên trên trần.

Wilson đăm đăm nhìn ông ta, tựa một chú chó đang cuộn tròn trên tấm thảm nhỏ phía trước lò sưởi nhìn chủ của mình, với cặp mắt tròn xoe to tướng chẳng chứa đựng niềm hy vọng nào khác ngoài niềm hy vọng được phục tùng ngay cả cử chỉ mệnh lệnh nhỏ nhất của chủ. Liệu ông chủ có sắp sửa phá vỡ sự im lặng không? Liệu ông ta có tiết lộ cho Wilson biết ông ta đang mơ màng chuyện gì và có chấp nhận để kẻ tùy tùng bước chân vào địa hạt tư duy đầy sức hấp dẫn của ông ta không?

Sau hồi lâu Sholmès cứ chẳng nói chẳng rằng, Wilson đánh bạo lên tiếng: “Mọi việc xem chừng êm ả nhỉ. Tuyệt nhiên không có một vụ án nào xâm phạm vào những khoảnh khắc nhàn tản của chúng ta.”

Sholmès chẳng đáp lời, mà các vùng khói ông ta nhả ra còn đẹp hơn cả lúc trước, và Wilson nhận định rằng người bạn mình đang rất thích thú với cái trò vặt ấy, dấu hiệu cho thấy ông ta đang không trầm tư mặc tưởng gì. Wilson chán ngán đứng lên, đến bên cửa sổ.

Con phố vắng vẻ chạy qua mặt tiền ảm đạm của các ngôi nhà bụi bặm, mà buổi sáng hôm nay trở nên ảm đạm khác thường vì một cơn mưa to đang ào ạt trút xuống. Một cỗ xe ngựa chạy qua, rồi một cỗ nữa. Wilson ghi số xe vào sổ. Nhỡ đâu có lúc lại cần đến!

“Ồ!” Ông ta bật kêu lên. “Người đưa thư kìa.”

Anh chàng đầy tớ dẫn người đưa thư vào.

“Hai bức thư bảo đảm, thưa ông. Ông làm ơn ký nhận.”

Sholmès ký tờ biên lai, tiễn người đàn ông ra cửa, vừa quay vào vừa mở một trong hai bức thư.

“Nó có vẻ khiến anh hài lòng.” Wilson nhận xét, sau một chút im lặng.

“Bức thư này chứa đựng một lời đề nghị rất thú vị. Anh đang mong mỏi một vụ án, thì đây. Anh hãy đọc đi.”

Và Wilson đọc:

Thưa ông,

Tôi mong muốn có được sự giúp đỡ cũng như kinh nghiệm của ông. Tôi là nạn nhân của một vụ trộm hết sức ghê gớm, mà việc điều tra cho tới lúc này vẫn chưa đem lại kết quả. Tôi gửi kèm theo đây vài tờ báo để ông nắm bắt thông tin vụ việc, và nếu ông nhận lời giải quyết vụ việc này, ông sẽ có thể tùy ý sử dụng ngôi nhà của tôi, đồng thời hãy điền một con số bất kỳ vào tấm séc tôi đã ký gửi kèm theo đây để ông trang trải các phí tổn cần thiết.

Làm ơn trả lời bằng điện tín.

Cảm ơn ông rất nhiều.

Người hầu cận khiêm nhường của ông,

Nam tước VICTOR d’IMBLEVALLE

Số 18 đường Murillo, Paris.

“Ồ!” Sholmès bật thốt. “Nghe hay đấy… một chuyến đi ngăn ngắn sang Paris… tại sao không nhỉ, Wilson? Kể từ cuộc đấu lẫy lừng giữa tôi với Arsène Lupin, tôi chưa có cớ gì để trở lại đó. Tôi sẽ sẵn lòng viếng thăm kinh đô của thế giới trong những hoàn cảnh ít vất vả hơn.”

Sholmès xé tấm séc làm tư. Rồi, trong khi Wilson – cánh tay vẫn chưa hồi phục được như trước – buông ra mấy câu gay gắt đả phá Paris và người dân Paris, Sholmès mở bức thư thứ hai. Ngay lập tức, ông ta làm một cử chỉ bực bội, và ông ta đọc bức thư mà trán nhăn hết cả lại. Cuối cùng, vo viên tờ giấy, ông ta tức tối ném nó xuống sàn.

“Ồ! Sao vậy?” Wilson lo lắng hỏi.

Ông ta nhặt tờ giấy lên, mở nó ra đọc, nỗi kinh ngạc mỗi lúc một tăng.

Thưa ông kính mến,

Ông biết chắc chắn rằng tôi vốn vẫn ngưỡng mộ ông và quan tâm tới tiếng tăm của ông. Chà, xin ông đừng nghi ngờ lời tôi, khi tôi cảnh báo với ông rằng ông không có bất cứ việc gì liên quan tới cái vụ án mà ông vừa được gọi sang Paris để xử lý. Việc can dự của ông sẽ gây nên nhiều thiệt hại, những nỗ lực của ông sẽ dẫn đến hậu quả vô cùng đáng tiếc, và ông sẽ bắt buộc phải công khai thú nhận thất bại.

Chân thành mong muốn tránh cho ông khỏi bị bẽ mặt như thế, nhân danh tình bạn vốn vẫn gắn kết chúng ta, tôi khẩn khoản xin ông cứ bình yên nghỉ ngơi bên lò sưởi nhà mình.

Cho tôi được gửi những lời chúc tốt đẹp nhất tới ông Wilson, Toà tới ông, từ người bạn tận tụy.

ARSÈNE LUPIN

“Arsène Lupin!” Wilson sửng sốt nhắc lại.

Sholmès giáng nắm đấm xuống bàn, kêu lên: “Ồ! Hắn làm tôi khó chịu rồi, cái thằng hề ấy! Hắn cười cợt tôi như thể tôi là một đứa học trò nhãi ranh! Công khai thú nhận thất bại! Chẳng phải tôi đã bắt buộc hắn phải nhả viên kim cương xanh ra đó sao?”

“Tôi cam đoan với anh, hắn sợ hãi đấy mà.” Wilson đưa ra ý kiến.

“Vớ vẩn! Arsène Lupin có bao giờ sợ hãi, và bức thư châm chọc này tỏ rõ điều ấy.”

“Nhưng làm sao hắn biết Nam tước d’Imblevalle viết thư cho anh?”

“Làm sao tôi biết được? Anh lúc nào cũng hỏi những câu ngớ ngẩn, anh bạn của tôi.”

“Tôi cho là… Tôi đồ là…”

“Sao? Anh cho là tôi có khả năng thấu thị à? Hay có khả năng làm thầy phù thủy?”

“Không, nhưng tôi từng chứng kiến anh làm được một số việc phi thường.”

“Không ai có thể làm được những việc phi thường. Tôi không hơn gì anh. Chẳng qua tôi ngẫm nghĩ, tôi diễn dịch, tôi kết luận, vậy thôi. Chứ tôi đâu phải thần thánh. Chỉ kẻ ngốc mới là thần thánh.”

Wilson có cái thái độ của một con chó hung hăng vừa bị quất máy roi, và quyết định không tự biến mình thành kẻ ngốc với việc cố gắng phỏng đoán lý do tại sao Sholmès cứ gấp gáp, căng thẳng bước tới bước lui xung quanh phòng. Nhưng khi Sholmès rung chuông gọi đầy tớ, sai sắp xếp va li, thì Wilson cho rằng ông ta đã nắm trong tay thực tế xác đáng để có quyền ngẫm nghĩ, diễn dịch và kết luận bạn mình đang sửa soạn hành lý lên đường. Cũng các bước hoạt động trí tuệ đó cho phép ông ta khẳng định, gần như với sự chính xác toán học: “Sholmès, anh sẽ đi Paris.”

“Có thể.”

“Và anh đi vì muốn đáp trả sự lăng mạ của Lupin, chứ chẳng phải vì muốn giúp đỡ Nam tước d’Imblevalle.”

“Có thể.”

“Sholmès, tôi sẽ đi cùng anh.”

“Ồ! Ồ! Bạn già.” Sholmès thốt lên, ngừng bước. “Anh không sợ cánh tay phải của anh cũng sẽ chịu chung số phận như cánh tay trái của anh ư?”

“Chuyện gì xảy ra cho tôi được chứ? Anh sẽ có đó mà.”

“Nói thật chí lý, Wilson. Chúng ta sẽ cho thằng cha người Pháp láu lỉnh thấy một điều rằng hắn đã phạm phải sai lầm khi ném găng tay vào mặt chúng ta thách đấu. Nhanh nào, Wilson, chúng ta phải bắt chuyến tàu đầu tiên!”

“Không đợi đọc những tờ báo ông Nam tước gửi cho anh ư?”

“Chúng có ích gì?”

“Vậy tôi sẽ đánh điện.”

“Không, nếu anh làm thế, Arsène Lupin sẽ biết tôi đang đến. Tôi muốn tránh điều ấy. Lần này, Wilson, chúng ta phải chiến đấu một cách bí mật.”

Buổi chiều hôm đó, hai người bạn lên tàu ở Dover. Chuyến đi quả là thú vị. Trên tàu hỏa từ Calais tới Paris, Sholmès có ba tiếng đồng hồ ngủ ngon, trong lúc Wilson canh chừng cửa toa.

Sholmès thức giấc, tinh thần sảng khoái. Ông ta hân hoan trước ý nghĩ sẽ được đấu tay đôi lần nữa với Arsène Lupin, và ông ta xoa xoa hai bàn tay vẻ đầy hài lòng, kiểu như người ta đang mong ngóng một kỳ nghỉ dễ chịu.

“Rốt cuộc!” Wilson bật thốt. “Chúng ta lại sắp sửa vào việc.”

Và ông ta cũng xoa xoa hai bàn tay vẻ đầy hài lòng như thế.

Ở ga, Sholmès khoác áo choàng, vứt vé tàu và mạnh mẽ bước. Wilson xách va li theo sau.

“Thời tiết tốt đấy, Wilson… Trời xanh, nắng vàng! Paris đang dành cho chúng ta một cuộc đón tiếp vương giả.”

“Phải, nhưng người qua kẻ lại đông đúc làm sao!”

“Như thế hay hơn nhiều chứ, Wilson. Chúng ta sẽ không bị chú ý gì. Không ai nhận ra chúng ta trong đám đông cả.”

“Đây có phải ông Sholmès không ạ?

Ông ta dừng lại, hơi bối rối một chút. Quỷ tha ma bắt, ai có thể gọi đích danh ông ta? Một người phụ nữ đứng bên cạnh ông ta, một cô gái trẻ mà chiếc váy dài giản dị ôm lấy vóc dáng thanh mảnh, và gương mặt xinh đẹp mang vẻ lo lắng, buồn rầu. Cô gái lặp lại câu hỏi: “Ông là ông Sholmès?”

Khi ông ta vẫn im lặng, vừa vì sự bối rối vừa vì thói thận trọng, cô gái hỏi lần thứ ba: “Tôi đang có vinh dự được nói chuyện với ông Sholmès phải không ạ?”

“Cô cần gì?” Ông ta bực bội đáp, coi sự việc này là rất đáng ngờ.

“Ông phải nghe tôi, thưa ông Sholmès, vì chuyện này là chuyện nghiêm trọng. Tôi biết ông đang chuẩn bị đến đường Murillo.”

“Cô-nói-cái-gì?”

“Tôi biết. Tôi biết đường Murillo… số 18. Ôi, ông không được đi… không, ông không được. Tôi cam đoan với ông rằng ông sẽ phải hối tiếc. Đừng nghĩ tôi có dính dáng lợi ích gì trong chuyện này. Tôi làm việc này vì việc này là việc đúng đắn… vì lương tâm tôi mách bảo.”

Sholmès cố gắng thoát khỏi cô gái, nhưng cô cứ khăng khăng: “Ôi! Tôi van xin ông, ông đừng bỏ mặc lời khuyên của tôi… Ôi! Nếu tôi biết cách nào thuyết phục được ông! Hãy nhìn tôi! Hãy nhìn vào mắt tôi! Chúng chân thành… chúng nói lên sự thật.”

Bạo dạn nhưng ngây thơ, cô gái nhìn Sholmès đăm đăm, bằng cặp mắt tuyệt đẹp, đứng đắn, trong trẻo, dường như phản ánh chính tâm hồn cô.

Wilson gật đầu, nói: “Cô đây trông thành thật.”

“Vâng.” Cô gái khẩn khoản. “Và ông phải tin tưởng…”

“Tôi tin tưởng ở cô, thưa cô.” Wilson đáp.

“Ôi, ông khiến tôi sung sướng làm sao! Và bạn ông cũng tin tưởng ở tôi? Tôi cảm thấy thế… tôi chắc chắn thế! Thật sung sướng quá! Bây giờ thì mọi sự sẽ ổn thỏa!… Hành động của tôi mới đúng đắn làm sao chứ!… Ồ! Phải, hai mươi phút nữa có chuyến tàu đi Calais. Các ông sẽ bắt chuyến tàu đó… Nhanh lên, theo tôi… các ông phải đi lối này… còn vừa đủ thời gian.”

Cô gái gắng sức kéo họ đi. Sholmès tóm cánh tay cô, và bằng giọng ra vẻ nhẹ nhàng hết mức, nói: “Thưa cô, xin lỗi cô, nếu tôi không chiều theo mong muốn của cô được, nhưng tôi chưa bao giờ từ bỏ một nhiệm vụ đã nhận.”

“Tôi van xin ông… Tôi cầu khẩn ông… Ôi, giá như ông hiểu được!”

Sholmès bước gấp gáp ra phía đường. Wilson nói với cô gái: “Đừng sợ… Ông ấy sẽ có mặt lúc chung cuộc. Ông ấy chưa bao giờ chịu thất bại.”

Rồi Wilson chạy đuổi theo Sholmès.

Ngay khi vừa rời khỏi ga, những dòng chữ đen to tướng đập vào mắt họ. Cả đám đàn ông con trai đang diễu hành dọc theo phố, người nọ nối đuôi người kia, cầm những cây can nặng bịt sắt ở đầu, gõ nhịp nhàng xuống vỉa hè, và, trên lưng họ, là những tấm áp phích lớn, với nội dung sau:

Arsène Lupin đấu với Herlock Sholmès

Cuộc chiến giữa Herlock Sholmès và Arsène Lupin. Một đối thủ của nhà vô địch Anh quốc. Viên thám tử vĩ đại tấn công vụ việc bí ẩn ở đường Marillo. Hãy đọc chi tiết trên tờ Tiếng vang nước Pháp.

Wilson lắc đầu, nói: “Nhìn kìa, Sholmès, chúng ta nghĩ chúng ta đang vi hành! Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên nếu thấy những người bảo vệ nền cộng hòa chờ đợi chúng ta đường Murillo để dành cho chúng ta một cuộc đón tiếp theo nghi thức với bánh mì nướng và rượu sâm panh.”

“Wilson, khi anh khôi hài, anh khôi hài một cách đáng khó chịu.” Sholmès làu bàu.

Rồi ông ta đến gần một trong số những người đeo áp phích với ý định rõ ràng là tóm lấy anh ta bằng bàn tay to khỏe của mình, bóp nát anh ta cùng tấm bảng trời đánh thánh vật. Rất nhiều người vây xung quanh những người đeo áp phích, đọc lời quảng cáo và cười cợt.

Nén cơn thịnh nộ, Sholmès hỏi người đàn ông: “Người ta thuê các anh bao giờ?”

“Sáng hôm nay.”

“Các anh đã diễu hành bao lâu rồi?”

“Chừng một tiếng đồng hồ.”

“Nhưng những tấm bảng đã được chuẩn bị sẵn sàng từ trước đó?”

“Ồ, vâng, sáng hôm nay lúc chúng tôi đến đại lý thì đã có hết rồi.”

Vậy xem ra Arsène Lupin đã biết trước được rằng Sholmès sẽ chấp nhận lời đề nghị. Chưa kể là bức thư Lupin viết còn cho thấy anh ta háo hức xuất trận và sẵn sàng so gươm lần nữa với đối thủ đáng gờm của mình. Tại sao? Arsène Lupin có thể có động cơ gì để lại gây chiến?

Sholmès thoáng do dự. Lupin ắt hẳn phải rất tự tin rằng anh ta sẽ chiến thắng thì mới sớm thể hiện sự xấc láo tới độ ấy, và liệu ông ta có đang rơi vào một cái bẫy khi vừa được gọi giúp đỡ đã lao sang?

Tuy nhiên, ông ta vẫn vẫy cỗ xe ngựa.

“Nào, Wilson!… Bác đánh xe, số 18 đường Murillo!” Sholmès hét, với sự bột phát năng lượng quen thuộc. Các mạch máu căng phồng và hai bàn tay nắm chặt lại, như thể chuẩn bị bước vào một trận đấm bốc, ông ta nhảy lên xe.

Chạy dọc đường Murillo là những ngôi nhà nguy nga tráng lệ, lưng quay về phía công viên Monceau. Một trong những ngôi nhà có vẻ phô trương nhất là ngôi nhà số 18, mà Nam tước d’Imblevalle sở hữu và đang sinh sống, được trang hoàng theo cung cách lộng lẫy xa hoa, phù hợp với khiếu thẩm mỹ và sự giàu có của chủ nhà. Phía trước nhà là một cái sân, phía sau nhà là một khu vườn đầy cây cối, cành lá đan cả vào cành lá bên công viên.

Sau khi bấm chuông, Sholmès và Wilson được cho vào. Họ đi qua sân, rồi một người hầu đón họ ở cửa, đưa họ vào một phòng khách nhỏ nhìn ra khu vườn phía sau. Họ ngồi xuống, đưa mắt quan sát xung quanh, nhanh chóng duyệt qua rất nhiều đồ vật quý giá bày đầy trong phòng.

“Tất cả đều được chọn lọc kĩ càng.” Wilson lẩm bẩm. “Và có gu thẩm mỹ bậc nhất. Có thể suy luận một cách chắc chắn rằng người nào mà đã có thời gian sưu tầm được những thứ này rồi, bây giờ ít nhất cũng phải nằm mươi tuổi.”

Cửa mở, Nam tước d’Imblevalle bước vào, theo sau là vợ ông ta. Trái với diễn dịch của Wilson, cả hai vợ chồng còn khá trẻ, dáng dấp tao nhã, lời nói và cử chỉ sôi nổi, hoạt bát. Hai vợ chồng rối rít bày tỏ sự biết ơn.

“Các ông đã đến, thật tốt quá! Xin lỗi là làm phiền tới các ông nhiều! Bây giờ thì hậu quả của vụ trộm dường như không thấm tháp gì, vì nhờ nó mà chúng tôi có được niềm hân hạnh này.”

“Cặp vợ chồng người Pháp này quyến rũ biết bao!” Wilson tự nhủ, phát huy khả năng diễn dịch rất đỗi bình thường của mình.

“Nhưng thời gian là tiền bạc.” Ông Nam tước thốt lên. “Đặc biệt là thời gian của ông, ông Sholmès. Nên tôi sẽ đi thẳng vào vấn đề. Nào, ông nghĩ gì về vụ việc? Ông cho rằng mình có thể thành công chứ?”

“Để trả lời được điều đó, tôi phải biết vụ việc ra sao đã.”

“Tôi tưởng ông biết rồi.”

“Chưa. Nên tôi phải đề nghị ông thuật lại đầy đủ các chi tiết, kể cả các chi tiết nhỏ nhặt nhất. Đầu tiên, bản chất của vụ việc là gì?”

“Một vụ trộm.”

“Nó xảy ra khi nào?”

“Thứ Bảy tuần trước.” Ông Nam tước đáp. “Hay, ít nhất, cũng trong khoảng thời gian giữa đêm thứ Bảy và sáng Chủ nhật.”

“Vậy là cách đây sáu ngày. Nào, ông có thể thuật lại cho tôi nghe toàn bộ vụ việc.”

“Đầu tiên, thưa ông, tôi phải nói với ông rằng vợ chồng tôi, theo cung cách mà địa vị của chúng tôi đòi hỏi, rất hiếm khi đi ra ngoài. Cuộc sống của chúng tôi đại loại xoay quanh chuyện dạy dỗ con cái, vài dịp tiếp khách, bảo dưỡng và trang hoàng nhà cửa. Gần như tất cả các buổi tối chúng tôi đều ở trong căn phòng xinh xắn này. Vợ tôi sử dụng nó như khuê phòng của cô ấy, và chúng tôi tập trung bày biện ở đây một số đồ nghệ thuật. Buổi tối thứ Bảy tuần trước, chừng mười một giờ, cũng giống mọi ngày, tôi tắt điện và vợ chồng tôi đi về phòng mình.”

“Phòng ông bà ở đâu?”

“Bên cạnh phòng này. Cái cửa kia là cửa phòng chúng tôi. Sáng hôm sau, tức là sáng Chủ nhật, tôi dậy khá sớm. Vì Suzanne, vợ tôi, vẫn còn ngủ, tôi rón rén sang khuê phòng này một cách khẽ khàng nhất có thể để cô ấy không bị thức giấc. Tôi mới kinh ngạc làm sao thấy cửa sổ mở, mà buổi tối hôm trước chúng tôi đã đóng lại rồi!”

“Người hầu…”

“Vào buổi sáng, chúng tôi chưa rung chuông gọi thì chưa ai vào đây. Hơn nữa, tôi vốn vẫn luôn luôn phòng xa, chốt cái cửa thứ hai thông sang phòng chờ. Do đó, cửa sổ ắt đã được mở từ bên ngoài. Vả lại, tôi có bằng chứng cho việc ấy: Ô kính thứ hai bên tay phải, sát với chốt cửa, bị cắt mất.”

“Cửa sổ mở ra đâu?”

“Ông có thể tự thấy đây ạ, nó mở ra một ban công nhỏ, lan can đá. Đây, chúng ta đang ở tầng hai, và ông có thể thấy khu vườn phía sau ngôi nhà, hàng rào sắt ngăn cách ngôi nhà với công viên. Hoàn toàn chắc chắn là tên trộm đã từ công viên bắc thang leo qua hàng rào, rồi trèo vào hàng hiên bên dưới cửa sổ.”

“Ông bảo điều đó hoàn toàn chắc chắn?”

“Ồ, trên nền đất mềm ở cả hai phía của hàng rào, người ta phát hiện được hai cái lỗ do hai chân thang tạo nên, cũng có thể thấy hai cái lỗ tương tự bên dưới cửa sổ. Và lan can ban công xuất hiện hai vết xước, dứt khoát là do chiếc thang dựa vào.”

“Ban đêm công viên Monceau có đóng cửa không?”

“Không, nhưng nếu nó có đóng cửa thì một ngôi nhà là ngôi nhà số 14 cũng đang xây và người ta có thể lọt vào qua đó.”

Herlock Sholmès ngẫm nghĩ vài phút, rồi đề nghị: “Chúng ta hãy nói về vụ trộm. Nó ắt phải xảy ra trong phòng này.”

“Đúng, ở đây, giữa bức tượng Đức Mẹ đồng trinh thế kỷ XII và chiếc hòm thánh làm bằng bạc chạm trổ kia, vốn vẫn đặt một cây đèn Do Thái nhỏ. Nó đã biến mất.”

“Chỉ có thế thôi?”

“Chỉ có thế”

“Ồ!… Và cây đèn Do Thái là cây đèn gì?”

“Một trong số các cây đèn làm bằng đồng đỏ mà người Do Thái cổ xưa đã dùng, gồm một cái chân đỡ lấy một cái bát đựng dầu, trong cái bát có một số bấc.”

“Nhìn chung, đó là một vật không mấy giá trị.”

“Đương nhiên, nó chẳng quý giá lắm. Nhưng cây đèn này lại có một chỗ cất giấu bí mật mà chúng tôi hay giấu một món đồ kim hoàn rất đẹp, một con quái vật trong thần thoại Hy Lạp bằng vàng, gắn ngọc đỏ và ngọc lục bảo, hết sức có giá trị.”

“Tại sao ông bà cất giấu ở đó?”

“Ồ! Thưa ông, tôi không thể nêu lên lý do gì, chẳng qua nó là cái ý thích kỳ quặc, cái ý thích sử dụng một chỗ cất giấu kiểu ấy.”

“Trước đây có ai biết việc này không?”

“Không.”

“Không ai biết, ngoài tên trộm.” Sholmès nói. “Nếu không, hắn đã không phải tốn công tốn sức lấy cây đèn.”

“Đương nhiên. Nhưng bằng cách nào mà hắn biết được, vì cũng ngẫu nhiên chúng tôi mới biết tới cái cơ chế bí mật của cây đèn.”

“Một sự ngẫu nhiên tương tự đã hé lộ cho một người khác… một người hầu… hay một người quen. Nhưng chúng ta hãy tiếp tục nào. Tôi đồ là cảnh sát biết về vụ việc này rồi?”

“Phải. Ông thẩm phán điều tra đã điều tra xong. Các phóng viên kiêm thám tử có quan hệ mật thiết với các tờ báo hàng đầu cũng đã điều tra. Nhưng như tôi viết trong thư gửi cho ông, tôi thấy xem ra bí ẩn này sẽ không bao giờ sáng tỏ được.”

Sholmès đứng lên, đến bên cửa sổ, kiểm tra khung cửa, ban công, hàng hiên, nghiên cứu các vết xước trên dãy lan can đá với chiếc kính lúp, rồi đề nghị ông d’Imblevalle dẫn ra xem xét khu vườn.

Ở ngoài vườn, Sholmès ngồi xuống chiếc ghế dựa làm bằng mây, mơ màng nhìn đăm đăm lên mái ngôi nhà. Sau đó, ông ta tới chỗ hai cái hộp gỗ nhỏ úp bên trên hai cái lỗ do chân thang tạo thành trên nền đất, hai cái hộp nhằm mục đích giữ cho hai cái lỗ nguyên trạng. Ông ta nhấc hai cái hộp ra, quỳ gối xem xét kĩ lưỡng hai cái lỗ và đo kích thước. Ông ta xem xét hai cái lỗ gần hàng rào theo cách tương tự. Rồi ông ta cùng ông Nam tước trở vào khuê phòng, nơi phu nhân d’Imblevalle đang đợi. Im lặng một chút, Sholmès nói: “Nam tước, khi ông mới bắt đầu câu chuyện, tôi đã ngạc nhiên trước cái cách hành động rất đơn giản của tên trộm. Dựng một chiếc thang, cắt một ô kính cửa sổ, chọn một đồ vật có giá trị, rồi rời đi. Không, đó không phải cái cách những việc đại loại như vậy được thực hiện. Tất cả quá đơn giản, quá rõ ràng.”

“Chà, ông nghĩ thế nào?”

“Tôi nghĩ cây đèn Do Thái đã bị đánh cắp dưới bàn tay đạo diễn của Arsène Lupin.”

“Arsène Lupin!” Ông Nam tước thốt lên.

“Phải, nhưng hắn không tự thực hiện, vì không có ai lọt vào từ bên ngoài. Có lẽ một người hầu đã từ tầng bên trên tụt xuống theo cái ống máng mà tôi trông thấy lúc ra vườn.”

“Điều gì khiến ông nghĩ thế?”

“Arsène Lupin thì sẽ không rời khỏi căn phòng này tay không.”

“Tay không! Hắn đã đem theo cây đèn mà.”

“Nhưng như thế đâu ngăn cản được hắn lấy chiếc hộp đựng thuốc lá hít kia, có gắn kim cương, hay chuỗi vòng đeo cổ ngọc mắt mèo. Hắn có bỏ lại thứ gì thì cũng chỉ vì hắn không khiêng đi được thôi.”

“Thế dấu vết của chiếc thang ở ngoài kia?”

“Là dấu vết giả. Đơn giản chỉ để đánh lạc hướng nghi ngờ.”

“Còn những vết xước trên lan can?”

“Trò hề! Chúng được tạo ra bằng giấy ráp. Ông trông đây, đây là những mẩu giấy ráp tôi đã nhặt ngoài vườn.”

“Dấu chân thang thì sao?”

“Giả vờ thôi! Hãy kiểm tra hai cái lỗ hình chữ nhật bên dưới cửa sổ và hai cái lỗ gần hàng rào. Chúng trông tương tự nhau, nhưng tôi phát hiện ra rằng khoảng cách giữa hai cái lỗ gần ngôi nhà ngắn hơn khoảng cách giữa hai cái lỗ gần hàng rào. Thực tế ấy nêu lên giả thuyết thế nào? Theo tôi, nó nêu lên giả thuyết là bốn cái lỗ kia được tạo thành bằng một miếng gỗ mà người ta đã chuẩn bị từ trước.”

“Nếu phát hiện ra chính miếng gỗ thì chứng cứ sẽ xác đáng hơn.”

“Nó đây.” Sholmès tuyên bố. “Tôi tìm thấy nó trong vườn, dưới tán một cây nguyệt quế”

Ông Nam tước cúi đầu thừa nhận sự tài ba của Sholmès. Mới có bốn mươi phút kể từ lúc viên thám tử người Anh bước chân vào ngôi nhà, ông ta đã đập tan tất cả các giả thuyết trước đó, các giả thuyết được dựa trên những thực tế xem ra hiển nhiên và không thể phủ nhận. Những gì giờ đây xem ra là những sự việc có thật được dựa trên cơ sở chắc chắn hơn, tức là, dựa trên cơ sở lập luận sắc sảo của một Herlock Sholmès.

“Việc ông đưa ra lời buộc tội đối với một trong những người thuộc gia đình chúng tôi là việc rất nghiêm trọng.” Nam tước phu nhân nói. “Những người hầu đã ở cùng chúng tôi lâu rồi và chẳng người nào lại phản bội sự tin tưởng của chúng tôi.”

“Nếu không ai phản bội ông bà, thì ông bà có thể giải thích ra sao việc tôi nhận được bức thư này cùng ngày và cùng chuyển chuyển phát với bức thư ông bà gửi cho tôi?”

Sholmès trao bức thư do Arsène Lupin gửi cho Nam tước phu nhân. Bà Nam tước sửng sốt thốt lên: “Arsène Lupin! Bằng cách nào mà hắn biết được?”

“Ông có nói với ai việc viết thư cho tôi không?”

“Không.” Ông Nam tước đáp. “Chúng tôi nảy ra ý định này vào buổi tối hôm trước, lúc đang ăn.”

“Trước mặt những người hầu?”

“Không, chỉ có hai đứa trẻ nhà chúng tôi thôi. Ồ! Không… Sophie và Henriette lúc ấy đã rời khỏi bàn rồi, phải không, Suzanne?”

Phu nhân d’Imblevalle, sau khi nghĩ ngợi một chút, đáp: “Vâng, hai đứa lúc ấy đã đi đến chỗ cô rồi.”

“Cô à?” Sholmès hỏi.

“Cô gia sư, cô Alice Demun.”

“Cô ta có ăn cùng ông bà không?”

“Không, cô ấy được phục vụ ăn trong phòng mình.”

Wilson có một ý tưởng. Ông ta nói: “Bức thư viết cho Herlock Sholmès bạn tôi đã được đem đi gửi?”

“Đương nhiên.”

“Vậy ai đem đi gửi?”

“Dominique, người hầu phòng cho tôi đã hai mươi năm nay.” Ông Nam tước đáp. “Mọi tìm kiếm theo hướng đó chỉ lãng phí thời gian thôi.”

“Không bao giờ là lãng phí thời gian khi tiến hành một cuộc tìm kiếm.” Wilson nói với vẻ dạy đời.

Bước điều tra sơ bộ đến đây kết thúc, và Sholmès xin phép rút lui.

Một tiếng đồng hồ sau, vào bữa ăn tối, ông ta gặp Sophie và Henriette, hai đứa trẻ của cái gia đình này, một sáu tuổi, một tám tuổi. Bên bàn, mọi người hầu như không chuyện trò gì. Sholmès đáp lại lời lẽ thân thiện của hai vị chủ nhà bằng những câu cụt lủn, khiến họ nhanh chóng im lặng. Khi cà phê được dọn ra, Sholmès uống ực hết tách của mình, đứng dậy và rời khỏi bàn.

Đúng lúc ấy, người hầu đem một bức điện vào cho Sholmès. Ông ta mở đọc:

Tôi hoàn toàn khâm phục ông. Kết quả mà ông đạt được trong khoảng thời gian ngắn ngủi như thế thật tuyệt vời. Tôi mất hết cả tinh thần đấy.

Sholmès làm một cử chỉ thể hiện sự căm phẫn, đưa lời nhắn cho ông Nam tước, nói: “Thưa ông, bây giờ thì ông nghĩ gì? Tường nhà ông có tai có mắt hay sao?”

“Tôi không hiểu nổi.” Ông Nam tước kinh ngạc đáp.

“Tôi cũng không hiểu nổi. Nhưng tôi hiểu là Lupin nắm bắt được mọi việc xảy ra trong ngôi nhà này. Hắn nắm bắt được mọi lời nói, mọi hành động. Chắc chắn thế. Nhưng bằng cách nào mà hắn có thông tin? Đó là bí ẩn đầu tiên tôi phải làm sáng tỏ, và khi tôi biết được điều này tôi sẽ biết được tất cả những điều khác.”

Đêm hôm ấy, Wilson về phòng mình với lương tâm trong sạch của một người đã làm tròn bổn phận và do đó chắc chắn có quyền ung dung ngủ nghỉ. Thế là ông ta hết sức nhanh chóng thiếp đi, và chẳng mấy chốc đã lạc vào những giấc mơ thú vị nhất, thấy mình đơn thương độc mã truy đuổi, bắt giữ được Lupin, và cảm giác hồi hộp, sống động đến nỗi ông ta thức giấc. Một người đang đứng bên cạnh giường ông ta. Ông ta vớ lấy khẩu súng lục, la to: “Đừng động đậy, Lupin, không tôi sẽ bắn.”

“Quỷ tha ma bắt! Anh có ý gì thế, Wilson?”

“Ồ! Té ra anh, Sholmès. Anh muốn tôi làm gì ư?”

“Tôi muốn cho anh xem cái này. Dậy đi.”

Sholmès dẫn Wilson đến bên cửa sổ, nói: “Nhìn kìa!… Phía bên kia hàng rào…”

“Trong công viên ấy à?”

“Phải. Anh trông thấy gì?”

“Tôi không trông thấy gì cả.”

“Có, anh có trông thấy cái gì chứ.”

“Ồ! Đương nhiên, một bóng đen… hai bóng đen.”

“Phải, gần hàng rào. Thấy chưa, chúng đang di chuyển. Nào, nhanh lên!”

Họ vội vã xuống cầu thang, vào một căn phòng có cửa mở ra vườn. Qua khung kính, họ trông thấy hai bóng đen đang ở cùng chỗ với nhau.

“Hết sức kỳ lạ.” Sholmès nói. “Nhưng có vẻ là tôi nghe thấy tiếng động bên trong nhà.”

“Bên trong nhà? Không thể. Mọi người đều đang ngủ cả.”

“Ô, nghe này.”

Lúc ấy, có tiếng huýt sáo khe khẽ cất lên bên kia hàng rào, và họ quan sát thấy có ánh sáng lờ mờ dường như hắt ra từ ngôi nhà này.

“Hẳn ông Nam tước đã bật đèn phòng ông ta. Phòng ông ta ở ngay bên trên phòng chúng ta đang đứng.”

“Vậy hẳn đó là tiếng động anh nghe thấy.” Wilson nói. “Có thể họ cũng đang quan sát chỗ hàng rào.”

Tiếng huýt sáo cất lên lần thứ hai, khẽ hơn lần trước.

“Tôi không hiểu. Tôi không hiểu.” Sholmès nói một cách cáu kỉnh.

“Tôi cũng không hiểu nổi nữa.” Wilson thú thực.

Sholmès xoay chìa khóa, rút chốt, khẽ khàng mở cửa. Tiếng huýt sáo cất lên lần thứ ba, to hơn lần trước, và có luyến láy. Tiếng động bên trên đầu họ nghe rõ rệt hơn. Sholmès nói: “Có vẻ ở ban công bên ngoài cửa sổ khuê phòng.”

Ông ta thò đầu ra qua khung cửa mở dở chừng, nhưng ngay lập tức rụt lại, nén câu chửi thề. Rồi Wilson nhìn ra. Một chiếc thang đang dựng ngay sát họ, đầu thang dựa vào ban công.

“Quỷ tha ma bắt!” Sholmès nói. “Kẻ nào đó đang trong khuê phòng. Gây nên tiếng động chúng ta nghe được lúc nãy. Nhanh lên, chúng ta hãy nhấc chiếc thang ra nào.”

Nhưng, đúng lúc ấy, một gã đàn ông tụt xuống, chạy về phía kẻ tòng phạm đang chờ ở bên kia hàng rào. Gã vác chiếc thang theo. Sholmès và Wilson đuổi kịp gã đàn ông đúng lúc gã dựa chiếc thang vào hàng rào. Từ bên kia hàng rào, hai phát súng nhắm bắn họ.

“Có bị thương không?” Sholmès kêu lên.

“Không.” Wilson đáp.

Wilson tóm lấy người gã đàn ông, cố giữ gã, nhưng gã quay lại, xỉa con dao vào ngực Wilson. Ông ta buột một tiếng rên, lảo đảo ngã xuống.

“Mẹ kiếp!” Sholmès lẩm bẩm. “Nếu bọn chúng đã giết bạn ta, ta sẽ giết bọn chúng.”

Ông ta đặt Wilson nằm lên trên cỏ, lao về phía chiếc thang. Quá muộn, gã đàn ông đã leo qua hàng rào và cùng kẻ tòng phạm biến mất giữa những bụi cây um tùm.

“Wilson, Wilson, này, tình hình không nghiêm trọng đâu! Chỉ là một vết xước.”

Cửa ngôi nhà mở ra, ông d’Imblevalle xuất hiện, theo sau là những người hầu, nến cầm trong tay.

“Sao thế?” Ông Nam tước hỏi. “Ông Wilson bị thương ư?”

“Ồ! Không có gì, chỉ là một vết xước.” Sholmès lặp lại, cố gắng tự lừa mình.

Máu đang tuôn ào ạt, và bộ mặt Wilson xám ngoét. Hai mươi phút sau, bác sĩ xác định mũi dao đâm vào cách tim khoảng chừng ba phân.

“Cách tim khoảng chừng ba phân! Wilson vẫn luôn luôn may mắn!” Sholmès nói, giọng ghen tị.

“May mắn… may mắn…” Ông bác sĩ lẩm bẩm. “Đương nhiên! Sao, với thể chất tráng kiện của mình, ông ấy sẽ sớm hồi phục. Sáu tuần nằm dưỡng thương và hai tháng lấy lại sức khỏe.”

“Chỉ thế thôi?”

“Chỉ thế thôi, trừ phi có biến chứng.”

“Ôi! Quỷ tha ma bắt! Anh ta muốn có biến chứng làm gì?”

Sau khi đã hoàn toàn yên lòng, Sholmès vào gặp ông Nam tước trong khuê phòng. Lần này, vị khách bí ẩn chẳng còn dè dặt như lần trước. Một cách không thương xót, bàn tay xấu xa đã động đến chiếc hộp đựng thuốc lá hít có gắn kim cương, chuỗi vòng đeo cổ ngọc mắt mèo, và, nói chung, là động đến tất cả những thứ có thể bỏ vào các cái túi tham lam của một kẻ đào tường khoét ngạch táo tợn.

Cửa sổ vẫn mở, một ô kính bị cắt gọn ghẽ, và, vào buổi sáng, kết quả điều tra sơ bộ cho thấy chiếc thang là của ngôi nhà đang xây.

“Bây giờ thì ông có thể thấy đấy.” Ông d’Imblevalle nói với chút mỉa mai. “Vụ lần này lặp lại chính xác vụ cây đèn Do Thái.”

“Phải, nếu chúng ta chấp nhận giả thuyết đầu tiên của cảnh sát.”

“Ông chưa chấp nhận nó? Chẳng phải vụ trộm thứ hai này đã đập tan giả thuyết của ông về vụ trộm thứ nhất hay sao?”

“Nó chỉ củng cố cho giả thuyết của tôi thôi, thưa ông.”

“Như vậy thật lạ lùng! Ông đã có chứng cứ rõ ràng là vụ trộm đêm hôm qua do một kẻ ở bên ngoài thực hiện, tuy nhiên ông vẫn bám lấy cái giả thuyết cho rằng cây đèn Do Thái bị một kẻ ở trong nhà đánh cắp.”

“Phải, tôi chắc chắn về điều này.”

“Ông giải thích như thế nào?”

“Tôi chẳng giải thích gì cả, thưa ông. Tôi đã xác minh được hai sự việc dường như không liên quan tới nhau, nhưng tôi đang tìm kiếm cái mắt xích còn thiếu để kết nối hai sự việc này lại.”

Sholmès có vẻ quả quyết và chắc chắn tới mức ông Nam tước quy phục và nói: “Thôi được, chúng ta sẽ báo cho cảnh sát biết.”

“Tuyệt đối không!” Viên thám tử người Anh vội vã kêu lên. “Tuyệt đối không! Tôi dự định yêu cầu họ giúp đỡ khi tôi cần, nhưng khi tôi chưa cần thì không.”

“Thế việc bạn ông bị tấn công?”

“Việc đó không gây hậu quả gì. Ông ấy chỉ bị thương. Hãy đảm bảo bác sĩ có giấy phép hành nghề. Tôi sẽ chịu trách nhiệm pháp lý đối với vụ việc.”

Hai ngày tiếp theo hóa ra chẳng có sự kiện gì. Tuy nhiên, Sholmès đang tiến hành điều tra một cách hết sức kĩ lưỡng, và với ý thức về niềm kiêu hãnh bị tổn thương do vụ trộm diễn ra ngay trước mũi ông ta, bất chấp sự hiện diện của ông ta, mà ông ta chẳng thể ngăn chặn được. Ông ta nghiên cứu tỉ mỉ ngôi nhà và khu vườn, thẩm vấn những người hầu, vào bếp và vào chuồng ngựa rất lâu. Mặc dù nỗ lực của ông ta chưa đem đến kết quả gì, ông ta không thấy thất vọng.

“Mình sẽ thành công.” Sholmès nghĩ. “Và lời giải phải được tìm kiếm giữa các bức tường của ngôi nhà này. Vụ việc này hoàn toàn khác với vụ việc liên quan tới Tiểu thư Tóc vàng, khi đó mình phải hành động trong bóng tối, trên trận địa chưa xác định được. Lần này, mình đang có mặt trên chính chiến trường. Kẻ địch chẳng phải là Lupin vô hình, khó nắm bắt, mà là tên tòng phạm bằng xương bằng thịt, sinh sống và đi lại giữa các bức tường của ngôi nhà này. Hãy để mình phát hiện ra một đầu mối mong manh nhất, cuộc chơi lúc ấy dứt khoát thuộc về mình!”

Cái đầu mối ấy ngẫu nhiên lọt vào tay Sholmès.

Buổi chiều ngày thứ ba, khi ông ta vào căn phòng nằm bên trên khuê phòng, được dùng làm phòng học cho hai đứa trẻ, ông ta gặp Henriette, cô em gái. Cô bé đang tìm kiếm chiếc kéo của mình.

“Ông biết đấy.” Henriette bảo Sholmès. “Cháu làm những tờ giấy giống tờ giấy ông nhận được buổi tối hôm trước.”

“Buổi tối hôm trước à?”

“Vâng, khi bữa tối vừa xong, ông nhận được một tờ giấy có đóng dấu… ông biết đấy, một bức điện… Ồ, cháu cũng làm những tờ giấy giống như thế.”

Cô bé rời khỏi căn phòng. Với bất kỳ người nào khác, những lời này xem ra chỉ là lời nhận xét tầm thường của một đứa trẻ, và bản thân Sholmès cũng lắng nghe với điệu bộ lơ đễnh, tiếp tục chú ý vào việc điều tra của mình. Nhưng, bất chợt, ông ta chạy theo cô bé, đuổi kịp cô bé ở đầu cầu thang. Ông ta hỏi: “Vậy cô dán tem và đóng dấu lên các tờ giấy?”

Henriette rất tự hào đáp: “Vâng, cháu cắt và dán chúng.”

“Ai bày cho cô cái trò nhỏ đó?”

“Cô… cô gia sư của cháu… Cháu thấy cô ấy hay làm thế. Cô ấy cắt các chữ từ báo ra, rồi dán chúng…”

“Cô ấy làm thành cái gì?”

“Các bức điện và các bức thư mà cô ấy đem đi gửi.”

Herlock Sholmès quay lại phòng học, hết sức bối rối trước thông tin vừa rồi, tìm cách rút ra từ thông tin này một suy luận logic. Có một chồng báo ở trên bệ lò sưởi. Ông ta mở ra, thấy nhiều từ và, thi thoảng, cả một dòng bị cắt mất. Nhưng, sau khi đọc vài từ đứng trước và đứng sau chỗ bị cắt, ông ta kết luận rằng chắc một đứa trẻ đã cắt một cách bừa bãi thôi. Có thể một trong số các tờ báo đã bị cô gia sư cắt, nhưng làm sao ông ta quả quyết được?

Sholmès máy móc lật những cuốn sách giáo khoa trên bàn, rồi lật những cuốn sách khác trên giá. Bỗng nhiên, ông ta kêu lên sung sướng. Trong góc của tủ sách, dưới một chồng sách bài tập cũ, ông ta thấy một cuốn sách dạy bảng chữ cái cho trẻ em, trong đó, các chữ cái được minh họa bằng các hình vẽ, và ông ta phát hiện ra có một từ ở một trang đã bị cắt mất. Ông ta xem xét. Đó là danh sách các ngày trong tuần. Thứ Hai, thứ Ba, thứ Tư… Từ thứ Bảy bị thiếu. Mà vụ trộm cây đèn Do Thái lại xảy ra đêm hôm thứ Bảy.

Sholmès thấy tim mình đập gấp gáp một thoáng, đó luôn luôn là lời tuyên bố hùng hồn nhất rằng ông ta đã khám phá ra con đường dẫn đến chiến thắng. Cái tia sáng sự thật đó, cái cảm giác chắc chắn đó, chưa bao giờ lừa ông ta.

Những ngón tay bồn chồn của ông ta hấp tấp lật các trang còn lại của cuốn sách. Rất nhanh chóng, ông ta có một khám phá nữa. Đó là một trang in những chữ cái viết hoa, tiếp theo là một dãy chữ số. Chín chữ cái và ba chữ số đã được cắt ra một cách cẩn thận. Sholmès chép các chữ cái cùng với các chữ số bị mất vào sổ, theo trật tự bảng chữ cái và số từ bé đến lớn:

C D E H N O P Z – 237

“Chà! Thoạt trông, nó là một câu đố khá hóc búa.” Ông ta lẩm bẩm. “Nhưng, bằng cách đổi chỗ và sử dụng tất cả các chữ cái đó, có thể tạo ra một, hai hay ba từ hoàn chỉnh.”

Sholmès cố gắng, nhưng không ăn thua gì.

Chỉ duy nhất một lời giải có vẻ khả thi. Nó liên tục hiện ra trước mắt ông ta, bất kể là ông ta thay đổi vị trí các chữ cái cách nào chăng nữa, cho tới lúc, rốt cuộc, ông ta hài lòng nghĩ nó đích thực là lời giải đúng đắn, vì nó hòa hợp với logic của các sự kiện và hoàn cảnh tổng thể của vụ án.

Vì trong đó của cuốn sách không có chữ cái nào được in hai lần, nên chắc rằng, thực tế là hoàn toàn chắc chắn rằng, những từ Sholmès có thể tạo ra với các chữ cái ấy sẽ không trọn vẹn, và những từ trước đây được tạo ra phải sử dụng đến các chữ cái cắt ở các trang khác nữa. Trong tình thế đó, ông ta đi tới lời giải sau đây, chấp nhận có chỗ khuyết thiếu:

REPOND Z – CH – 237

Từ đầu tiên khá rõ ràng: répondez (hãy trả lời), một chữ E bị thiếu vì nó xuất hiện hai lần trong từ này, mà cuốn sách lại chỉ in mỗi chữ cái một lần thôi.

Đối với từ chưa trọn vẹn thứ hai, kết hợp cùng con số 237, chắc chắn nó làm thành địa chỉ nhận câu trả lời. Thời gian ấn định là thứ Bảy, và câu trả lời được yêu cầu gửi tới địa chỉ CH. 237.

Hay, có lẽ, CH. 237 là địa chỉ phòng thư lưu bưu điện nào đó, hay, lại lần nữa, những chữ cái và chữ số kia làm thành một từ chưa trọn vẹn. Sholmès soát lại cuốn sách, nhưng không phát hiện thêm chữ cái nào khác bị cắt mất. Vậy thì, trước khi có dữ kiện mới, ông ta quyết định bám lấy hướng suy nghĩ nêu trên.

Henriette trở vào phòng, quan sát việc Sholmès đang làm.

“Cũng vui, phải không ạ?”

“Ừ, rất vui.” Sholmès đáp. “Nhưng, cô có các sách báo khác không?… Hay nói đúng hơn là những từ đã được cắt ra rồi để cho tôi dán ấy?”

“Sách báo ạ?… Không… Mà cô cũng không thích đâu.”

“Cô?”

“Vâng, cô gia sư đã quở trách cháu rồi.”

“Tại sao?”

“Tại cháu đã nói với ông một số điều… và cô gia sư bảo rằng người ta không bao giờ nên tiết lộ ra những việc làm mà người ta yêu thích.”

“Cô hoàn toàn đúng.”

Henriette thích thú trước sự tán thành của Sholmès, thực tế là thích thú tới mức cô bé lục chiếc túi lụa xinh xắn được cài vào váy, lấy ra mấy mẩu vải, ba cái khuy, hai viên đường, và, cuối cùng, một mảnh giấy mà cô bé đưa cho Sholmès.

“Thấy chưa, dù sao cháu vẫn đưa cho ông nhé.”

Đó là biển số một chiếc xe ngựa, 8279.

“Số này từ đâu ra?”

“Nó rơi ra từ ví của cô gia sư.”

“Bao giờ?”

“Hôm Chủ nhật ạ, ở lễ Misa, khi cô ấy lấy tiền xu ra để quyên góp.”

“Chính xác! Và bây giờ thì tôi sẽ bày cho cô cách tránh bị quở trách lần nữa nhé. Cô đừng nói với cô gia sư là cô trông thấy tôi.”

Rồi Sholmès đi gặp ông d’Imblevalle, đặt vấn đề nghi ngờ cô gia sư. Ông Nam tước phẫn nộ đáp: “Alice Demun! Làm sao ông có thể tưởng tượng ra một việc như thế? Việc đó hoàn toàn không thể!”

“Cô ta đã làm việc cho ông bà bao lâu rồi?”

“Mới một năm, nhưng tôi tin tưởng cô ấy hơn tất cả mọi người khác trong nhà này.”

“Tại sao tôi chưa gặp cô ta nhỉ?”

“Cô ấy đi vắng vài ngày.”

“Nhưng bây giờ thì cô ta đang có mặt tại đây.”

“Phải, cô ấy trở về là ở bên giường săn sóc người bạn của ông luôn. Cô ấy có đầy đủ các phẩm chất của một nữ y tá… nhẹ nhàng… ân cần… Ông Wilson xem ra rất hài lòng.”

“Ồ!” Sholmès thốt lên. Bản thân ông ta đã hoàn toàn bỏ bê bạn mình. Nghĩ ngợi một chút, ông ta hỏi: “Cô ta có đi đâu vào sáng Chủ nhật không?”

“Ngày tiếp theo vụ trộm ấy à?”

“Phải.”

Ông Nam tước gọi vợ tới hỏi. Vợ ông ta nói: “Cô gia sư có đưa bọn trẻ đi dự lễ Misa lúc mười một giờ, như thường lệ.”

“Thế trước đó?”

“Trước đó à? Không… Để tôi xem nào… Vụ trộm đã làm tôi quá bối rối… Nhưng bây giờ thì tôi nhớ ra rồi, buổi tối hôm trước, cô ấy xin phép sáng Chủ nhật đi ra ngoài… đi thăm một người anh họ ghé qua Paris, tôi cho là vậy. Nhưng chắc chắn ông không nghi ngờ cô ấy đấy chứ?”

“Đương nhiên rồi… có điều tôi muốn gặp cô ta.”

Sholmès sang phòng Wilson. Một cô gái mặc chiếc váy vải màu xám giống như trong bệnh viện, đang cúi xuống người bị thương, cho ông ta uống nước. Khi cô ta quay mặt ra, Sholmès nhận ra cô gái trẻ đã bắt chuyện với ông ta ở nhà ga.

Alice Demun mỉm cười duyên dáng. Cặp mắt to, thơ ngây, nghiêm nghị của cô ta chẳng bộc lộ chút bối rối nào. Viên thám tử người Anh thử trò chuyện, lẩm bẩm vài từ, rồi im. Cô ta tiếp tục công việc của mình, hành động một cách hoàn toàn tự nhiên trước cái nhìn chằm chằm kinh ngạc của Sholmès, xê dịch các chai lọ, tháo băng cũ, thay băng mới, và lại nhìn Sholmès với nụ cười duyên dáng hoàn toàn ngây thơ vô tội.

Ông ta quay gót, xuống cầu thang, trông thấy chiếc xe hơi của ông d’Imblevalle đỗ ở trong sân, liền nhảy vào, yêu cầu người tài xế đưa đi Levallois, tới văn phòng hãng xe ngựa mà địa chỉ in trên mảnh giấy ông ta đã nhận từ tay Henriette. Người đánh chiếc xe ngựa biển số 8279 sáng Chủ nhật đang không có mặt, Sholmès giải tán chiếc xe hơi, chờ người đánh xe quay lại. Anh ta bảo Sholmès rằng anh ta đã đón một phụ nữ ở khu vực gần công viên Monceau, một phụ nữ trẻ vận đồ đen, đeo mạng dày, và dường như khá bồn chồn.

“Cô ta có mang theo cái gói nào không?”

“Có, một cái gói khá là dài.”

“Anh đưa cô ta tới đâu?”

“Đại lộ Ternes, góc quảng trường Saint-Ferdinand. Cô ta ở đó chừng mười phút, rồi quay lại công viên Monceau.”

“Anh có thể nhận ra ngôi nhà ở đại lộ Ternes không?”

“Đương nhiên! Tôi đưa ông đến đấy nhé?”

“Đi luôn. Trước hết, hãy đưa tôi tới số 36 phố Orfèvres.

Tại văn phòng cảnh sát, Sholmès gặp thám tử Ganimard. “Ông Ganimard, ông có thoải mái thời gian không?”

“Nếu chuyện liên quan tới Lupin thì câu trả lời là không.”

“Chuyện liên quan tới Lupin.”

“Vậy tôi không đi đâu.”

“Cái gì? Ông đầu hàng, ông chịu khuất phục trước hoàn cảnh.”

“Tôi chán ngán cuộc đấu không cân sức này rồi, cuộc đấu mà chúng ta chắc chắn sẽ thất bại. Lupin mạnh hơn tôi, mạnh hơn hai chúng ta, do đó chúng ta phải đầu hàng thôi.”

“Tôi sẽ không đầu hàng.”

“Hắn sẽ khiến ông phải đầu hàng, vì tất cả mọi người đều ủng hộ hắn.”

“Và ông sẽ vui vẻ chứng kiến điều này hả, Ganimard?”

“Dù gì thì đó cũng là sự thật.” Ganimard thẳng thắn nói. “Và vì ông quyết tâm theo đuổi cuộc chơi, tôi sẽ đi với ông.”

Họ cùng leo lên cỗ xe ngựa và được đưa tới đại lộ Ternes. Theo yêu cầu của họ, cỗ xe ngựa dừng cách ngôi nhà một quãng, trước một quán cà phê nhỏ ở phía bên kia phố. Hai người đàn ông ngồi ngoài hàng hiên quán cà phê này, khuất giữa những bụi cây. Trời bắt đầu tối.

“Bồi bàn.” Sholmès nói. “Cho xin giấy bút.”

Ông ta viết bức thư ngắn, lại gọi bồi bàn, đưa cho anh ta bức thư, báo chuyển đến người giữ cửa của ngôi nhà ông ta chỉ.

Máy phút sau, người giữ cửa đứng trước mặt họ. Sholmès hỏi ông ta rằng sáng hôm Chủ nhật ông ta có trông thấy một cô gái trẻ vận đồ đen hay không.

“Vận đồ đen ư? Có, lúc đó chín giờ. Cô ta đi lên tầng ba.”

“Ông có thường xuyên trông thấy cô ta không?”

“Không, nhưng một đợt… ờ, vài tuần trước, gần như ngày nào tôi cũng trông thấy cô ta.”

“Còn từ hôm Chủ nhật?”

“Duy nhất một lần… cho đến tận hôm nay.”

“Cái gì? Hôm nay cô ta tới đây ư?”

“Ngay bây giờ cô ta đang ở đây.”

“Đang ở đây ngay bây giờ?”

“Vâng, cô ta tới cách đây mười phút. Cũng giống mọi khi, cỗ xe ngựa chở cô ta đang đỗ ở quảng trường Saint-Ferdinand. Tôi gặp cô ta ở cửa.”

“Ai sống trên tầng ba?”

“Có hai người. Một người làm mũ, cô Langeais, và một ông cách đây một tháng thuê hai phòng đã có sẵn đồ đạc dưới cái tên là Bresson.”

“Tại sao ông lại bảo dưới cái tên?”

“Tại vì tôi có ý nghĩ nó là tên giả. Bà nhà tôi dọn dẹp các phòng ông ta thuê, và… ờ, ở đó có hai chiếc sơ mi thêu những chữ cái đầu tên họ khác.”

“Ông ta có thường xuyên ở nhà không?”

“Không, ông ta gần như luôn luôn đi vắng. Ông ta đã đi vắng ba ngày rồi.”

“Đêm hôm thứ Bảy ông ta có ở nhà không?”

“Đêm hôm thứ Bảy à?… Để tôi xem… Có, đêm hôm thứ Bảy, ông ta về và ở nhà suốt.”

“Ông ta là người như thế nào?”

“Ồ, tôi chắc chắn không thể trả lời câu hỏi này. Ông ta liên tục thay đổi. Ông ta lúc thì to lớn lúc thì bé nhỏ, lúc thì béo lúc thì gầy… lúc thì đen lúc thì trắng. Tôi không phải lúc nào cũng nhận ra ông ta.”

Ganimard và Sholmès nhìn nhau.

“Đúng, đó là hắn.” Ganimard nói.

“Ồ!” Người giữ cửa kêu lên. “Cô gái kia kìa.”

Người phụ nữ trẻ vừa bước ra khỏi ngôi nhà và đang đi về phía cỗ xe ngựa đỗ ở quảng trường Saint-Ferdinand.

“Còn kia là ông Bresson.”

“Ông Bresson à? Người nào là ông ta?”

“Người cắp cái gói dưới nách.”

“Nhưng ông ta chẳng chú ý gì đến cô gái. Cô ta đang đi về phía cỗ xe ngựa một mình.”

“Vâng, tôi chưa bao giờ trông thấy hai người đi với nhau.”

Hai viên thám tử đã đứng dậy. Nhờ ánh sáng những ngọn đèn đường, họ nhận ra dáng dấp của Arsène Lupin, anh ta bắt đầu đi theo hướng ngược lại hướng cô gái đi.

“Ông sẽ bám theo kẻ nào?” Ganimard hỏi.

“Đương nhiên là bám theo hắn. Hắn là con mồi lớn nhất.”

“Vậy tôi sẽ bám theo đứa con gái.” Ganimard đề nghị.

“Không, không.” Sholmès vội vã nói, ông ta không muốn phơi bày nhân thân của cô gái với Ganimard. “Tôi biết phải tìm cô ta ở đâu. Đi theo tôi.”

Họ duy trì một khoảng cách an toàn với Lupin, chú ý ẩn mình hết sức có thể bằng cách di chuyển men theo phía sau các quầy bán báo. Họ thấy việc đeo bám này cũng dễ dàng, vì anh ta cứ thẳng tiến đều đều, không tạt trái tạt phải gì, tuy nhiên hơi khập khiễng bên chân phải, chỉ chút ít thôi, đòi hỏi con mắt sắc sảo của một tay quan sát nhà nghề mới phát hiện ra được. Ganimard phát hiện ra và nói: “Hắn đang giả vờ què. Ồ! Giá chúng ta có thể gọi hai hay ba cảnh sát tới vồ lấy con mồi của chúng ta nhỉ. Chúng ta khéo bị tuột mất hắn.”

Nhưng đến cửa ô Ternes, họ vẫn không gặp bất cứ một cảnh sát nào, và, sau khi đi qua các pháo đài rồi, cơ hội nhận được sự trợ giúp chẳng còn nữa.

“Chúng ta nên chia ra.” Sholmès nói, vì trên phố hầu như vắng bóng người.

Lúc bấy giờ, họ đang đi ở đại lộ Victor-Hugo. Sholmès và Ganimard, mỗi người đi một bên đường, lẩn trong bóng tối dưới những tán cây. Họ tiếp tục di chuyển như vậy thêm hai mươi phút, thì Lupin rẽ trái, đi dọc bờ sông Seine. Chẳng mấy chốc, họ trông thấy anh ta đi xuống mép nước. Anh ta đứng đấy mấy giây, nhưng họ không quan sát được động thái của anh ta. Rồi anh ta quay lại lối cũ. Những kẻ săn đuổi anh ta lẩn trong bóng tối dưới một cổng vòm. Lupin đi qua trước mặt họ. Cái gói anh ta cắp nách không còn. Và khi anh ta thong dong bước khỏi đó, một người đàn ông khác hiện ra dưới mái hiên một ngôi nhà, lướt đi qua các cái cây.

“Gã kia xem chừng cũng bám theo hắn.” Sholmès hạ giọng nói.

Cuộc truy đuổi tiếp tục, nhưng lúc bấy giờ đâm lúng túng vì sự hiện diện của người thứ ba. Lupin trở về theo đường cũ, đi qua cửa ô Ternes, và lại bước vào ngôi nhà ở đại lộ Ternes.

Người giữ cửa đang đóng cửa ngôi nhà trước khi đi ngủ thì Ganimard xuất hiện.

“Ông đã trông thấy ông ta chứ?”

“Vâng.” Người giữ cửa trả lời. “Tôi đang tắt ngọn đèn đốt bằng ga ở đầu cầu thang thì ông ta cài chốt cửa phòng mình.”

“Có ai sống cùng ông ta không?”

“Không, ông ta không có người hầu. Ông ta không bao giờ ăn uống gì ở đây.”

“Có cầu thang dành cho người hầu không?”

“Không ạ.”

Ganimard bảo Sholmès: “Tôi nên ở đây gác cửa phòng hắn trong lúc ông đi gọi viên sĩ quan phụ trách đồn cảnh sát trên đường Demours.”

“Thế nếu trong lúc đó hắn trốn thoát?” Sholmès hỏi.

“Khi tôi đang ở đây? Hắn không trốn thoát được đâu.”

“Một chọi một, với Lupin, ông không ngang cơ đâu.”

“Chà, tôi không thể mở cửa bằng vũ lực được. Tôi không có quyền làm như thế, nhất là vào ban đêm.”

Sholmès nhún vai, nói: “Khi ông bắt giữ Lupin, sẽ không ai đặt vấn đề ông bắt giữ bằng cách nào. Tuy nhiên, chúng ta hãy cứ lên gác bấm chuông, xem tình hình như thế nào.”

Họ lên trên tầng ba. Có một khung cửa hai cá