← Quay lại trang sách

Chương 2 VUI BUỒN

Sau khóa sư phạm cấp tốc của chính phủ mới, chính phủ Ngô Đình Diệm bà được bổ nhiệm về quê hương, một huyện nhà Quảng Ngãi, nhiệm sở đầu tiên bà dạy ở đó ba niên khóa thì chuyển về quê quán sau khi phục vụ theo yêu cầu công tác xa ba năm của chính quyền. Từ đây bà dạy mãi cho đến khi nước nhà thống nhất 1975.

Sau năm 75 bà vẫn dạy tiếp với tư cách giáo viên lưu dung của chính quyền mới Cộng hòa miền Nam Việt Nam cho đến khi nghỉ hè niên khóa 1974 -1975, bà mới có giấy báo nghỉ việc.

Gần 20 năm trên bục giảng với chừng ấy thế hệ chim non tung cánh ra trường tung bay trên khắp bầu trời quê hương, có em may mắn đỗ đạt thành danh, làm quan, có em kém may làm lính, làm nông, làm thợ, thời chiến tranh rất vất vả, cuộc chiến tương tàn kéo dài quá, tuy vậy bà vẫn ngày ngày với chiếc xe đạp sườn đầm con bướm dong ruổi trên khắp đường làng quê, lúc nào cũng chiếc áo dài thướt tha đi về, ở một làng xa của thành phố nhỏ hầu như ai cũng biết và yêu mến. Vì vậy, cả địa phương ấy đã gọi: Bà giáo Vân, cái ưu điểm của bà giáo dạy ở bậc tiểu học nên hầu như tất cả học trò xã nhà đều biết, dù có thành danh hay không.

Buổi gặp Sơn, tối về thao thức không ngủ được, hình ảnh biết bao nhiêu học trò bà giáo nhớ cứ lảng vảng trong đầu như thước phim chiếu chậm, Sơn là người bà lục lạo nhiều nhất trong tiềm thức đã ngủ yên trong chừng ấy năm với cơm áo lận đận sau bao mùa dời đổi, có lẽ vài mươi năm rồi còn gì.

Đâu chỉ là Sơn, cậu học trò bà dạy 2 năm liền lớp 2 và 3, còn cả em nó nữa Phong, Vũ con chú Quỳ, gia đình tuy nghèo nhưng từ tâm, sau khi Sơn nhận chiếc áo len bà giáo đan tự nguyện tặng cậu học trò nhỏ nhắn nhưng chăm chỉ và siêng năng, lúc nào sách vở cũng sạch sẽ, trong lúc các em cùng lớp sách vở xốc xếch, bìa vở cuốn trông thảm hại, bài vở rất chu đáo, nhất là bài tập ở nhà, em làm lớp phó 2 năm liền lớp hai và ba.

Năm ấy, sau vụ lụt Nhâm Thìn, nhà cửa trong xóm cù lao ấy hầu như ai cũng bị dòng nước cuốn trôi về biển, nhờ chú Quỳ biết dùng chiếc ghe chút xíu – Một phương tiện làm cá của riêng chú vào mùa lụt nên chú đã cứu vớt nhiều đồ đạt cho anh em và bà con lân cận, tuy vậy, gia đình ông không có được duyên may, từ ấy ai cũng mến. Các gia đình di tản ra đồi ông Trợ tránh lụt, nơi cao ráo không ngập, có hiên nhà rộng của ông nấu cơm nước đàng hoàng, thỉnh thoảng bà giáo đem gạo, mắm cứu khổ nên cả xóm cù lao ai cũng biết bà Giáo Vân.

Đến mùa đông, lạnh giá hơn mọi năm trước, Sơn đi học trong bộ áo quần đồng phục phong phanh, đến trường Sơn co ro trong lớp, bà đan chiếc áo len xám ngắn tay dự tính cho con mình, chỉ còn kết hai mảnh áo lại là thành chiếc áo pullover ngắn tay, cổ trái tim, bà vui sướng vì thành quả của mình, sắp có quà cho đứa con trai yêu mến với chiếc áo lạnh đã cũ từ anh nó truyền lại, bà khấp khởi trong lòng, có lẽ niềm hạnh phúc trổ hoa kỳ diệu khi thấy đứa con yêu cười sung sướng vui có chiếc áo mới.

Nhưng bỗng trong chốc lát, lòng thương trổi dậy tức thì cô giáo Vân gọi Sơn lên hỏi tại sao, Sơn lễ phép trả lời: “Nhà em bị lụt cuốn trôi hết, không ai còn áo ấm, nên em đành phải chịu lạnh đi học”, thế là bà đã mặc chiếc áo mới tinh ấy cho Sơn không chút phân vân, Sơn cảm động đến chảy nước mắt, nói cảm ơn cô giáo không nên lời.

Hôm sau, bà lại đan chiếc áo khác cho con trai, với bà chỉ trong vài ngày là có chiếc áo mới màu cánh dán sẫm cho con bà, nó vui sướng khi có chiếc áo mới như bà suy nghĩ. Nó hớn hở khoe với các chị anh nó và chúng bạn cùng lớp. Lời hẹn cho con áo mới coi như đã xong và bà cũng chẳng còn nhớ chiếc áo len năm nào tặng cho em Sơn, thời gian miệt mài đi qua như con nước sông cứ lặng lờ chảy xuôi về biển cả.

Mãi sau nầy bà giáo mới hay em Sơn đã vào Sài Gòn học trong đó, thường những đứa trẻ học chăm ngoan, sau nầy hiếu để và có danh phận hơn những đứa lười biếng và thích quậy phá trong nhà trường, đó là nhận định của bà đến khi bà không còn đứng trên bục phấn trắng bảng đen. Kinh nghiệm bao giờ cũng tương đối đúng nhiều hơn.

Bà thường dạy các con bà về đạo đức, bằng cách kể những câu chuyện về đạo lý trong các kỳ nghỉ hè, khi chúng mãi đùa vui trong không gian của làng quê trước mỗi kỳ tựu trường trở lại niên khóa mới, chính vậy nên nhà bà giáo con cái ai cũng đứng trên bục giảng, làm kỹ sư tâm hồn. Các con bà sau này cũng là người đồng nghiệp với bà.

Chẳng những em Sơn biết ân nghĩa, cái lớn hơn là em vẫn yêu mến cô giáo cũ – Người đã đặt nền móng tri thức cho em từ sơ khai, thuở còn thơ, dù bây giờ biết cô rất khó. Biết đạo lý, em xứng đáng làm quan trong xã hội còn đang hỗn độn về mọi mặt, sau cuộc khủng hoảng đói kém một thời của sung túc bị đỗ nát tan tành, chưa biết ngày nào thoát khỏi đói nghèo áo cơm, đừng nói chi đến ấm no, hạnh phúc trong mỗi gia đình có người làm cho chính quyền cũ.