Chương 3 MỘT CẢNH HAI QUÊ DẠY HỌC
Sau năm 1964, vùng chiến sự càng ngày càng đến gần nhà bà giáo, khi trận Gò Vừng nổ ra ở Nghĩa Hành, ông giáo - Chồng bà bắt đầu nghĩ đến chuyện ra phố, để tránh sự nguy hiểm của súng đạn lẫn những cán binh của Mặt trân Giải phóng Miền Nam buổi tối thường lẽn về các vùng lân cận bắt bớ.
Đầu năm 1965 bà nhờ một phụ huynh tín cẩn tản cư trông nhà giúp, gia đình ấy chấp nhận. Chiến tranh bao giờ cũng khổ đau, hầu như gia đình nào cũng một cảnh hai quê, cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn và mọi sinh hoạt của mỗi người, mỗi gia đình nhanh chóng thích nghi, sinh hoạt nhà bà giáo cũng vậy. Nhà bà giáo có 3 gian, nhà trên thờ phụng bà đã chất các đồ đạt còn lại và khóa kỹ, gia đình người ấy chỉ ở 2 gian: nhà ngang và nhà bếp, vẫn rộng thênh.
Ông bà giáo về phố ở căn nhà nằm trên mặt phố chính đường Quang Trung, đối diện trường Nam tiểu học. Quảng Ngãi thời trước 1975 có hai trường đặc biệt, một trường tiểu học dành riêng cho nam, một trường tiểu học cho nữ. Cứ mỗi mỗi sáng, lúc 6 giờ bà giáo vẫn đều đặn đến bến xe Lam bằng chiếc xe đạp đầm của bà, di chuyển từ phố về Nghĩa Hành bằng xe Lam, xuống bến xe bà lập tức đạp xe về trường bà dạy cách bến xe chừng 3 km trước giờ trống trường báo hiệu vào lớp 15 phút, bà đã có mặt tại văn phòng, thời biểu đều đặn dù mưa hay nắng, đông hay hè, đến nổi các tài xế bến Quảng Ngãi phải kính phục trong suốt thời gian dài đi dạy, hầu như bà chưa bao giờ trễ chuyến 6 giờ.
Sau giờ dạy bà về nhà ở quê và làm việc, hay nhắc nhở cũng như thăm đồng lúa, đặc biệt vào mùa gặt bà phân công đi coi đập lúa để chia phần những đám ruộng bà cho người người làm rẽ ruộng, có những năm nhiều thửa gặt cùng lúc, bà nhờ các con bà đã lớn về trông coi, sau năm giờ chiều là trở lại phố Quảng Ngãi, bởi sau nầy buổi tối ở quê bà Giáo mất an ninh sợ nguy hiểm cho các con.
Cậu Dũng, con bà cũng thỉnh thoảng được bà “lệnh” về quê coi đập lúa, dự buổi chia phần những lần như thế cậu khấp khởi trong lòng vì sẽ được tha hồ tự do tung tăng trên cánh đồng tít tắp, lúa chín vàng trĩu nặng, mùi rạ mới của các thửa ruộng vừa gặt như quyến rũ chàng, những tổ chim Manh manh – chim manh manh thường làm tổ trên ngọn lúa, đàn con sẽ nở trước khi lúa gặt, nhưng lâu lâu vẫn còn lại sót trên ngọn lúa vài tổ chim, có khi còn cả trứng hay chim non đem về nuôi, bao giờ người gặt cũng cho Dũng, mỗi lần như thế Dũng lại lân la trò chuyện với các người gặt lúa, người gặt ở quê bao giờ cũng nể nang những người ở phố, họ hỏi đủ chuyện về sinh hoạt và học tập của gia đình Dũng, những trận cười giòn tan khi có niềm vui vang vang trong nắng gió bay theo cánh đồng như giục giả tính hồn nhiên đôn hậu của Dũng, vì những lẽ đó Dũng rất thích về làng mỗi dịp có kỳ nghỉ.
Buổi trưa, khi gánh cơm đã ra đến hiện trường, mọi người nghỉ tay, rửa vội mặt mày tay chân rồi quây quần trên miếng ny lon trải dài đã bày biện, sắp sẳn “bửa cơm đồng”, ôi chao, Dũng cũng được cùng ngồi chung mâm như khách danh dự, những món “rất nhà quê ấy” như các tràu, cá rô nướng dầm nước mắm, canh khoai, canh mướp hương, cá diếc nấu lá gừng… còn vương vấn mãi trong tâm trí Dũng cho đến sau này.
Quê Nghĩa Hành có tập tục khá lạ là ăn nửa buổi, hay ăn xế - Hai bửa ăn phụ ấy vào nửa buổi sáng và chiều, lúc thì nồi khoai mì, khoai lang, lúc thì chè hay bánh tráng nướng cuốn với rau muống, chấm mắm hoặc đặt vài cộng rau muống và cả con mắm cái ở giữa rồi ăn, khá lạ, ngon, vì vậy nếu ai là dân xứ Nghĩa Hành đi xa cũng nhớ hương vị bình dân mộc mạc của người nông dân quê nhà.
Những người nông dân chơn chất ấy họ rất tình cảm, trọng nhân nghĩa và tốt bụng, bao giờ khi chia phần và trả công cuối ngày cho họ bằng những ang lúa Dũng cũng rộng tay cho người. Vì vậy, những chủ làm rẻ ruộng thích được bà giáo phân công Dũng về coi đập lúa.
Mùa cá lia thia, Dũng thường cùng bạn trang lứa đi bắt đem về phố nuôi và chơi đá cá lia thia, bắt cá cũng phải hiểu về nó, thường mùa lia thia sinh sản làm tổ, tổ là bọt của chính đôi vợ chồng cá làm nên để trú ẩn trong mùa sinh sản, hình như có tiết ra dịch vị gắn kết nên tổ rất bền, lỡ có cơn mưa rào cũng không thể tan được, với kinh nghiệm của bậc đàn anh, thường bọt lớn có cá to, khi thấy bọt nhẹ nhàng nghiêng dòm, nếu thấy có cá là be bờ đắp và tát nước ra từ từ, chú cá sẽ không thoát đâu được, cá lia thia sọc ngang trên mình càng to, thắm, miệng lớn, đuôi càng dài là khỏe lắm, lì đòn chính vì vậy khi bắt được cá lớn là các bạn nhỏ rất khoái chí. Tuổi thơ con trai ai đã từng sống nơi thôn dã sẽ cảm nhận được điều nầy.
Trong đời người ai đã từng xem đá cá lia thia mới thấy thú vị làm sao, loài cá rất dũng mãnh, thường trước khi thả chung một bình để cá đá, chúng được đặt kề nhau để vè, khi vè nhau, đuôi được bung thật lớn, hai miệng áp sát nhau như muốn cắn đối thủ, nếu như đá gà người chơi úp sát lồng để vè, và người chơi kinh nghiệm sẽ đoán biết mà bắt độ với nhau, thì đá cá cũng vậy.
Trái bóng nuôi cá cũng đẹp, hồi ấy các nhà khá giả đều mua nó, nghe nói rằng trên các tàu thủy có nhiều. Ông giáo vì yêu mến Dũng và cuối năm lớp năm Dũng có phần thưởng, để khuyến khích học tập ông mua tặng cho Dũng trái bóng thủy tinh màu xanh ấy, nó được đặt trên giá gỗ khá đẹp, đế được khoét tròn phía trên nhằm cho an toàn bởi quả bóng thủy tinh hình khối tròn, con cá nhất của Dũng bao giờ cũng được ở trong đó trên bàn học, Dũng thường bắt muỗi, ruồi cho nó ăn, quan sát cá ăn cũng thú vị lắm, khi bỏ con mồi vào trên mặt nước, lập tức nghe dao động, cá từ dưới ngắm thẳng và đớp con mồi rất chính xác.
Mỗi chiều bà giáo về gia đình sinh hoạt bao giờ cũng trước tối, lúc thì trái mít, lúc buồng chuối, trái thơm… lúc nào trên baga xe cũng có
Vì vậy con bà thường ngồi trước nhà đón mẹ về, bà đến nhà các con rộn rã, reo vui: “Mẹ đi dạy về”. Đời của bà giáo lặp đi lặp lại như thế, con của bà mỗi ngày một lớn trong niềm yêu thương, trìu mến của gia đình.