Chương 10 ĐỒNG CAM CỘNG KHỔ
Chờ đợi tin mẹ vả hỏi thăm, lần hồi cũng biết mẹ đã ở trại tập trung cải tạo.
Lũ con bà thắc mắc hoài, cả cuộc đời mẹ – Bà Giáo Vân mãi chăm chỉ và dành trọn thời thanh xuân và trung niên chăm sóc dạy dỗ cho các học trò bé con, người uốn măng non cho có nề nếp để mai sau thành tre cứng cáp về đạo đức làm người, người bắt những bậc thang đầu đời cho các thế hệ bé con đi đến khung trời kiến thức và đạo đức mai sau, ngoài ra quán xuyến, chăm sóc cho gia đình với bổn phận và trách nhiệm, bà đâu có làm gì nên tội tình mà học tập, vô lý hết sức. Trong nhà không thể tìm ra câu trả lời hợp lý. Nhưng đó là sự thật.
Biết nói sao bây giờ, cứ phải tìm cách giải quyết trước mắt.
Suối Bùn, thuộc xã Hành Tín. Xưa kia, cây cối còn um tùm hoang sơ, đường sá hiểm trở không người qua lại muỗi mòng, rắn rết, vắt, ngay cả thú dữ... đã làm cho địa điểm vùng này hoang vắng lắm và hai bên cư dân bị ốm đau, đến nỗi, dân gian có câu: “Bất ẩm Thiên Xuân khê”, nghĩa là không uống nước khe Thiên Xuân, rất độc nhất là thuốc khai quang vẫn còn trong những năm sau chiến tranh. Câu nói ấy vẫn còn lưu ở vùng phía bên tây dãy núi.
Trước năm 1975 dường như là vùng của quân đội cách mạng hoạt động và kiểm soát 100%. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa không bén mảng đến bao giờ. Sau năm 1975 có trại cải tạo cho quân cán chính của chính quyền cũ chức sắc nhỏ, bà Giáo Vân bị đưa lên ấy, không biết vì phạm tội gì.
Chị Thanh cùng với những người nhà bị triệu tập hôm ấy hò hẹn để đi thăm mẹ.
4 giờ sáng chị đã chuẩn bị chu đáo những vật dụng cần thiết để hành trình chuyến vượt núi trèo đèo thăm mẹ. Dũng cũng chuẩn bị cho chị loại đèn lon, đèn làm bằng lon sơn Bạch Tuyết có vòi xe đạp để luồn tim và liên kết với lon sữa bò, bên trên ngay vòi có đục lỗ để thoát khí bằng vòi xe đạp có ốc siết chặt để thắp đi đường khi trời tối, ánh sáng yếu ớt dẫu sao cũng đỡ hơn không đèn.
Sau chiến tranh kết thúc, mọi thứ còn lại quá ngỗn ngang, người ta bắt đầu khai khẩn làm ruộng rẫy, thỉnh thoảng vẫn còn tiếng nổ ì đùng của đạn bom còn sót lại người chết và bị thương do khai khẩn, đó là nổi đau lớn di chứng còn lại của chiến tranh, chẳng ai muốn nhưng hoàn cảnh xảy ra phải chịu.
Các bãi mìn lớn chung quanh đồn bót đã có lực lượng công binh quân đội rà soát đào lấy, mục đích hạn chế tối đa có thể, nhưng làm sao hết hẳn được, các trái đạn mồ côi còn rơi vải trên khắp đất nước. thỉnh thoảng vẫn có tiếng ì đùng nổ làm chấn động không gian, một tai nạn thương tâm xảy ra ít nhất một mạng người bị thương hay thương vong..
Qua cầu Cộng Hòa đi chừng 5, 7 cây số nữa đến suối Bùn.
4 bạn bè tập trung lại gửi xe đạp, ở quán che tạm bên ngoài, rồi đùm túm gánh gồng vào trại. người quản lý nhận các giấy tờ thăm nuôi thân nhân, ngồi chờ đợi gặp.
Qua khoảng trống chị thấy trong đoàn người ra gặp người nhà ai cũng cầm theo một cái bao nhựa, tất cả là đàn ông, chỉ có mẹ là đàn bà, dáng ai cũng gầy còm, chị nhận ra mẹ ngay,
10 h 00 mẹ ra, người cán bộ gọi chị vào gặp, thấy mẹ chị khóc òa, nói không ra lời, chị vốn đa cảm từ nhỏ, tiếng khóc mất toi gần năm phút, người cán bộ tới bên chị, nhắc nhở “chị có 30 phút để thăm hỏi” thôi nhé, chị như tỉnh ra, xin lỗi và rồi mẹ con chuyện trò:
- Cha con và các em ở nhà có sống nổi, nhà mình còn đan áo để kiếm thêm, cha con đỡ hơn không? Một loạt nhiều câu hỏi chung quanh gia đình...
- Tất cả bình thường mẹ ơi. Mẹ trong này có đói không? Bà đưa ngón tay lên trước miệng làm dấu, nghĩa là đừng hỏi vậy, bà nói nhỏ:
- Mẹ ở dưới bếp trong tổ nấu ăn và tăng gia, sản xuất nên có cơm không đến nổi đói.
Câu chuyện linh tinh xoay quanh gia đình, chủ lực là lo lắng cái ăn cho nhà và sức khỏe công việc của gia đình, loay hoay cũng hết giờ.
Cán bộ cai quản nhắc nhở: “chị và cô còn năm phút, chị lật đặt lon lương khô, bịch thuốc tây, thuốc chống nước, kem, bàn chải đánh răng và nói “con ghi sẳn trong từng món, mẹ cẩn thận ở lại học tập, đừng lo lắng gì cho nhà, từ ngày mẹ đi hình như các em đứa nào cũng siêng hơn, làm việc và hội họp chăm chỉ hơn”.
Bà giáo bỏ gọn tất cả đồ vào bao, chị Thanh chào bà rồi ra về, mắt bà rưng rưng nhìn theo.
Chị Thanh rất xúc động lúc chia tay bà, chị quay lại nhìn mẹ khi bà trở lại trại, chị quệt nước mắt trước khi bước ra khỏi nơi ấy, dù vậy mắt vẫn đỏ hoe.
Cả 4 người trở về nhà, trên đường về tuy nắng gắt, nhờ có gió nên chẳng ai cảm thấy mỏi mệt, hàng đôi sánh nhau chuyện trò trên con đường dài và hẹp còn khá hoang vắng.
Chập choạng tối chị Thanh về tới nhà, con Vện chạy tận ngõ đón chị vào nhà, nó hớn hở vẫy đuôi, ve vãn cùng chị vào nhà, mắt ngóng như trông chờ một tin lành truyền đi từ chị, ai bảo loài chó không thông minh, nó hiểu cảm xúc buồn vui của con người, trời đất đã ban tặng cho loài người một con vật sát cánh biết đồng cam cộng khổ với chủ. Tuyệt vời vậy nên cả nhà ai cũng cưng quý nó.
Cả nhà xúm xít hỏi thăm mẹ, đứa nào cũng mừng vì mẹ bình an và khỏe mạnh, nhất là cha, ông hỏi chị Thanh:
- Mẹ con thế nào, có khỏe không?
- Con nói chuyện với mẹ gần 30 phút, nơi ấy chỉ cho thời gian nhất định 30 phút thôi, mẹ ổn, được cái mẹ ở dưới bếp, mỗi sáng trưa có nhiệm vụ cắt rau lan xắt để nấu cháo heo chăm đàn heo, công việc không khổ sở và nhất là gần bếp ăn nên không đói.
- Vậy là được rồi, cha chỉ sợ lao động nặng, mẹ sức yếu đói ăn có thể bệnh tật, chướng khí dễ mất mạng.
- Mẹ hỏi sức khỏe cha nhiều nhất, Cha giữ gìn sức khỏe lỡ bệnh không có mẹ nhà, mệt lắm và thăm các em, chăm ngoan làm việc chờ mẹ về.
- Con có hỏi lý do gì mẹ bị cải tạo không?
- Dạ không, thôi cha. Mẹ bình an là được rồi mai mốt cũng biết thôi.
- Ừ, số trời, họa vô đơn chí, rồi ông trầm ngâm, nhìn xa xăm như có điều gì suy nghĩ.
Cuộc thay đổi quá lớn, đang bình yên bỗng chốc xáo trộn, không ai có thể lường được số mệnh là vậy. Ai cũng lo lắng nhưng rồi cũng chẳng giải quyết được gì.