← Quay lại trang sách

Chương 11

Từ ngày bà giáo đi, ông giáo có vẻ buồn hơn, tuy vậy ông vẫn cứ chăm chỉ làm lặt vặt trong vườn.

Ông giáo gần như một nông dân thuần chất, buổi sáng chỉ uống chè lá xanh, thỉnh thoảng có khách ông mới chế bình trà Tàu, thuốc lá vấn rồi ngồi trước nhà đan đác, hoặc cuốc đất trồng tỉa cho vui, chỉ áo may–dô, quần đùi gần trưa mới vào nhà. Sách vỡ không còn để đọc, bao tử đấu tranh liên tục nên ý thức bây giờ là cơm củ ‘khi cái củ mì to hơn thần thánh/ đừng nói chì đạo lý và lương tâm’, ông dè xẻn lời nói với mọi người lạ, chỉ trò chuyện với con cái, thỉnh thoảng có người bạn thân từ ngày trước ghé thăm mới trò chuyện cởi mở.

Gia bần trí đoản quả chẳng sai tí nào.

Còn mỗi chị Thanh đan áo, cứ mươi ngày xuống tỉnh một lần đem áo len xuống, kiếm ít tiền, mua len về đan, đắp đổi qua ngày, chờ mẹ về. Đời sống chật hẹp ở làng quê, nơi cắt rún chôn nhau sao nghẹt thở ê chề, ngao ngán nhất là không có tiền chi tiêu, vài đứa em nhỏ học đến lớp chín, cũng không được đậu vào lớp 10 trường phổ thông, không thể đi học tiếp được. Sự tàn nhẫn của chế độ đối với gia đình có người học tập lúc bấy giờ là vậy, khi còn tuổi được học không cho học chỉ vì cha mẹ các em làm việc cho chính phủ trước, mấy ông cán bộ già thì học bổ túc, chữ viết chưa ngay, ngược ngạo thế nhưng kiểm tra cứ lên lớp như thường. Một năm ba bốn lớp, họ học được cái gì?

Biết bao sự oan uổng cho các em học giỏi và chăm ngoan là nạn nhân của chế độ sau 1975.

Út nhỏ thi vào mười khi xem danh sách không có tên, nó về khóc tức tưởi, em không thể không đậu, giá như nhà trường cứ không cho em thi từ đầu, đàng này ‘cũng lều cũng chõng cũng đi thi’. Đại vô lý nhưng làm gì được khi người ta cố tình không cho đi học, nó chỉ biết khóc tức tưởi cho nhẹ nỗi oán giận. Rồi đây, lịch sử sẽ nhắc lại, phê phán điều tồi tệ nầy, lẽ ra không thể xảy ra, nếu người cầm đầu chính phủ có trí óc hiểu biết và trái tim độ lượng hơn.

Ông giáo phải nói chuyện với nó mấy ngày, mới nguôi giận và trở về với ruộng đồng, vườn tược.

May thay, tiếng khóc đã trôi đi những muộn phiền và rồi cũng đứng dậy nổi để sống với tuổi thanh xuân. Tuổi trẻ xốc nổi nhưng nỗi buồn cũng qua nhanh và bắt đầu với con đường mới. Con đường có lẽ gian nan, đầy bất trắc nhưng thế gian đâu có con đường nào trải đầy hoa hồng. Út đã bắt đầu như thế.

CHUYỆN CỦA ÚT

Mùa xuân năm ấy, cái tết cận kề còn vài mươi ngày nữa là đến tết. Út nãy ra ý nghĩ:

Chị à, hay là chị mượn cho em ít tiền, em sẽ làm gánh hàng bánh bán ở 2 chợ, chợ huyện và chợ chiều. Khởi đầu cho một cô bé dễ thương vừa bước vào cổng phổ thông trung học bị chế độ chắn ngang bởi cổng rào lý lịch, cả nhà ai cũng mủi lòng. Ngắn cổ kêu chẳng thấu trời.

Thương em, chị Thanh cũng chìu lòng dù biết rằng khung trời ấy lắm nhọc nhằn gian nan.

- Em thích bán buôn à? Chị thanh nói

- Chị à, chẳng lẽ nằm nhà, làm nông thì phụ thôi chứ em yếu đuối, học hành chẳng được, các anh chị còn quá vất vả, không như nhà người ta, gia đình mình không ai được vào làm cho nhà nước, em làm để phụ giúp thêm cùng các anh chị nên em nghĩ vậy. Tính trách nhiệm của Út có thừa, trả lời chắc nịch.

Tối ấy, ông giáo và cả nhà ngồi lại, ông nói với các con:

- Các con rất có trách nhiệm với bản thân và gia đình, đó là niềm vui lớn của cả nhà, cha đã nói với Dũng khi mới về, có thể rồi đây gia đình sẽ khó hơn, các em con chưa chắc như con, cả đời cha mẹ chỉ làm công chức, cứ nghĩ rằng các con sau nầy đứa nào cũng có chỗ đứng trong xã hội để phụng sự với năm tháng miệt mài chăm chỉ ở ghế nhà trường, bao giờ cha mẹ cũng tin như thế. Nhưng dòng đời không được toại nguyện, các con đều bị tai nạn của chế độ, chỉ vì cha mẹ làm việc cho chính quyền trước, cha không biết làm gì đành bất lực, nhìn các con mà xót cả lòng.

Ý thức tự lập, tự chủ, tự cường, là ý thức đẹp, song con Út còn nhỏ quá, cha nghĩ Út nên suy nghĩ chín chắn.

- Con vẫn biết còn nhỏ so với tuổi ra đời, nhưng ở nhà làm bánh, rồi chở xuống chợ bán không đến nổi không làm được, cha tin đi. Trường đời sẽ dạy con sống tốt hơn, công việc sẽ có thu nhập. Con sẽ làm được.

Dũng ngồi lắng nghe, bây giờ mới tiếp lời:

- Con sẽ phụ với em chạy vòng ngoài, cố gắng hết sức mình để Út có điều kiện viết nên câu chuyện gánh hàng bánh, biết đâu sẽ được cha à. Chị Thanh thấy sao, công việc chị đan áo, em phụ chị đi lấy len và đem áo xuống phố cho chị Thủy, mươi ngày mới một lần, thời gian trống rất nhiều.

- Ừ, vậy cũng được cha à, biết đâu thời không cho Út, trời đất sẽ cho Út.

- Trời đất kỳ diệu lắm, khép cổng này ắt sẽ cổng kia.

Từ hôm ấy, Út bắt tay vào công việc mới, nó thận trọng ghi vào sổ những thứ cần mua, về nhà chăm chỉ với công việc, quần quật cả ngày nào đỗ bánh thuẩn, làm bánh nỗ, bánh bó, bánh phục linh, bánh in, mứt gừng, mứt bí… tất thảy khá đẹp. Vốn nhà có truyền thống làm bánh đẹp, ngon nên tất cả bánh mứt, nhìn cũng thấy bắt mắt.

Ngày 14 tháng chạp năm ấy, nó khai trương, ngày hôm đó nó đã đặt ba dĩa bánh trên bàn thờ để cha cúng rằm, nhờ cha vái luôn cho nó khai trương thuận buồm xuôi gió, hàng bán nhanh, mua mau bán đắc gánh hàng bánh, nó tin một cách kính cẩn.

Hai nừng bánh với chiếc giỏ nhựa to đan bằng dây nhựa mua tận phố rất chắc chắn, Dũng phụ chở cái bàn, ghế ngồi, và những dụng cụ phụ liệu. Hai anh em lên chợ huyện rất sớm, làm thủ tục đăng ký chỗ ngồi đã sẵn từ vài hôm trước, nên nhanh chóng có quày bán, Dũng và Út bài trí khá gọn gàng, xinh xắn trong vài mươi phút là xong.

Dũng ra xa quan sát hồi lâu thấy có vài người mua, lòng cũng hân hoan rộn rã cùng cô em Út, dù sao thành quả ban đầu cũng có tay mình chăm bón. Thỉnh thoảng trông thấy cô em nhoẽn miệng cười nói với khách hàng, có lẽ nó mời mọc, rồi chợt nghĩ: ‘Nó sẽ quên đi nỗi buồn không được đến trường cùng chúng bạn, mà một thời Dũng đã cay đắng trải qua’.

Bất chợt nó lại nhẫm đọc bài Chợ tết của Đoàn văn Cừ, người họa sĩ vẽ bằng ngôn ngữ bức tranh chợ tết đẹp của làng quê Việt:

“Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa,

Tia nắng tía nháy hoài trên ruộng lúa,

Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh,

Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh.

Người mua bán ra vào đầy cổng chợ”

Chợ huyện là nơi nhộn nhịp bậc nhất của vùng quê trung du Nghĩa Hành, ngày thường đã náo nhiệt huống chi chợ Tết, tinh sương đã rộn rã, nào gà vịt, trái cây, rau quả đã bày biện trước chợ, tiếng ồn ào của người mua kẻ bán, làm tưng bừng một góc huyện, bên trong cổng chợ hàng bánh nhiều thêm, trong đó có hàng bánh của cô Út, có lẽ người chủ hàng nhỏ nhất chợ.

Hôm đó, nó mặc bộ đồ mới chị Thanh vừa mua dưới chợ tỉnh về trông càng rạng rỡ, người xinh xắn được điểm tô thêm bộ áo quần bông mới trông có vẻ đài các hơn, rất tiếc người đi chợ chẳng có anh thanh niên nào, nếu có chắc hẳn phải chú ý.

Dũng không về nhà, ghé ra quán cafe ngồi chờ từ sáng đến trưa, lần đầu tiên trong đời uống cafe cả buổi chờ đợi hết buổi chợ, trời ơi, nó dài như cả năm. Người chủ quán cafe cũng vui vẻ không muộn phiền gì, hết khách còn ra bắt chuyện với Dũng, nhờ vậy cũng thấy vui. Tan buổi chợ mới vào dọn về,

Buổi trưa, mùa xuân năm nay về sớm không khí mát dịu hơn mặc dù mặt trời đứng trưa, hai anh em đi song song, con đường vắng người, chuyện trò về buổi chợ, nó hưng phấn kể chuyện, không ngờ buổi chợ đầu tiên nhưng đắc hàng. Nó vui lắm. Mẻ lưới đầu tiên trong nghề bán bánh khá đầy đặn nó huyên thuyên với Dũng trên con đường gần 3 cây số, đến ngõ quanh vào nhà lúc nào cũng không hay.

Tranh thủ về nhà ăn cơm trưa, rồi còn phải chạy xuống chợ chiều cho kịp khai trương buổi chợ làng.

So với chợ huyện, chợ làng ít người hơn, tuy vậy vẫn đông đúc hơn ngày thường hơn nữa hàng bánh tết ít hơn so với chợ huyện, đây là lợi thế. Sau khi bày biện xong, Út thuê tấm du du che nắng - du du như một cái dù người ta dùng ống tre liên kết với tre đan, bên trên lợp các bao nhựa, hay bao gai, hoặc tấm vải thường người ta dùng để che nắng, sau người ta phủ bên trên tấm ni - long để che mưa bất ngờ, mỗi khi có chỗ ngồi cố định.

Dũng cố gắng quan sát và so sánh, cũng nhờ vậy Dũng biết được cảnh náo nhiệt của chợ làng quê mình.

Chiều xuống hẳn, mặt trời đã khuất phía sau rặng cây, tia nắng yếu ớt hình như còn luyến tiếc nhân gian cũng nhạt dần, nhạt dần, rồi yếu ớt xuyên qua tàn cây kẻ lá. Hoàng hôn bén lên cơn gió chiều thổi nhẹ làm mát tâm hồn Dũng mới xuống phụ dọn cùng cô em Út.

“Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha.

Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết,

Con gà trống mào thâm như cục tiết,

Một người mua cầm cẳng dốc lên xem.

Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm,

Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh”

Rồi anh em thong thả ra về, chiều đã sụp vào tối, làng quê lại tĩnh mịch, cảnh vật êm đềm và vắng vẻ. Ánh trăng vàng to như cái đĩa đã lên như chứng kiến niềm vui mới của hai anh em nhà nó trò chuyện trong buổi đầu vật lộn với cuộc đời.

Buổi tối, cả nhà huyên thuyên rôm rả câu chuyện của Út, nó hồn nhiên kể lại bán mua, rồi bung vỡ giòn tan tiếng cười, từ lâu lắm, cả nhà ông giáo mới có niềm vui chung từ chuyện gánh bánh tết của cô Út, đến đêm cả nhà phụ vào làm bánh, bổ sung thêm hàng đã bán được đến quá nửa đêm mới xong.

Mùa Tết nguyên đán năm ấy gia cảnh nhà ông Giáo bớt ảm đạm, hơn nữa có ông về trồng hoa như thú tiêu khiển để quên những muộn phiền, trồng hoa giúp người mỗi ngày chăm hoa tính kiên trì, nhẫn nại và tâm hồn vui hơn. Giáp tết, nào thược dược, vạn thọ, hường từ trong sân vườn nhà ra tận ngõ rực rỡ sắc màu hồng của hoa, cổ đồng của thược dược, cánh sen bông lớn ông vui lắm, cả nhà cùng vui lây.

Tết năm đó Út mua cho cha bộ Pyjama để ông mặc trong nhà cho lịch sự khi có khách đến thăm nhà, ông vui lắm. Tuy bộ đồ chẳng bao nhiêu tiền nhưng nó là cả tấm lòng của con cái thời khó khăn nhất của lịch sử đời ông. Ông mừng rỡ với nụ cười dung hậu.

Và nó cũng lì xì cho anh Dũng xấp vải quần ximili màu xám tro mua lại từ hợp tác xã phân phối, quần màu đầu tiên từ khi giải phóng đến giờ, năm ấy Dũng mặc quần ấy đi chơi cùng bè bạn suốt mấy ngày tết, có lẽ Dũng tự hào với đứa em bằng mồ hôi tạo nên món quà này.

Nó không quên gửi lên cho mẹ bộ đồ để mẹ có thay đổi trong dịp thăm cận tết.

Nó xầm xì bàn bạc trao đổi với chị Thanh làm sao mua 1 chỉ vàng để hộ thân.

Sau 1975 tất cả hàng vàng đều không được hoạt động, cả tỉnh chỉ có duy nhất hàng vàng quốc doanh, các thị trấn chỉ có trao đổi chui, mua bán vàng là cả vấn đề, nếu thuế vụ thầy có thể lập biên bản tịch thu. Chỉ là mua bán thôi nhưng thế đó.

Cuối cùng, Út cũng làm được 2 chiếc nhẫn mỗi chiếc 5 phân, ai cũng công nhận nó lanh lợi biết đổi tiền thành vàng để dành phòng thân khi bất trắc. Cả nhà ai cũng khâm phục.

Truyền thống nhà ông bà Giáo Vân năm nào cũng cúng từ giao thừa cho đến mùng bốn tết, mới tiễn đưa ông bà, con cháu, bà con tề tựu về nhiều, ông Giáo mới về người đến chúc tết thăm hỏi đông hơn.

Anh Hai con cậu phía ngoại sĩ quan cũ khi học tập xong năm nay cũng về dâng hương, cúng ông bà, xong ông Giáo và anh Hai trò chuyện.

Nghe anh mới về, dù em cũng còn quản chế, tết họ cho phép thăm hỏi nhưng không được đi khỏi huyện, vì vậy em về mừng tuổi ông bà, và tiện thể thăm anh.

- Cảm ơn em, anh cũng vậy nhưng anh chẳng muốn đi đâu, chị mầy mới vừa gọi đi, em biết rồi chứ?

- Em có nghe, anh thì đi mới về, đến phiên chị nhưng chị sao vậy, anh có biết lý đo gì không?

- Không nghe họ nói lý do, ngày xuống xã chỉ nói đem theo 3 ngày ăn, rồi từ đó đến nay

- Như kiểu bọn mình đem theo 7 ngày ăn, đi học tập vậy, rồi vài ba năm mới về.

- Ừ, một chính sách mà em.

- Bên hành chánh của anh thì sao chứ bên quân đội em căng lắm anh,

- Bên nào cũng vậy thôi, một chính sách mà ra có khác chi, bên anh nhờ các ông quận phó cũng như các viên chức dũng cảm cải lý với ông cán bộ trông coi, ông nào trình độ cũng lèm nhèm nên đuối lý.

Khi đuối lý có một câu duy nhất “Lệnh cấp trên vậy, chúng tôi thi hành” là xong việc.

Một hôm, ông giáo sư dạy Pháp văn bệnh, ông ấy bệnh sốt rét như anh, khi cán bộ tập trung bắt di chuyển đốn cây, ông ấy báo cáo xin nghỉ vì sốt rét, cán bộ không cho, bắt phải đi, đi một đoạn ông ấy gục ngã, người run cầm cập, mặt xanh như nhái cán bộ hoảng hốt, có bác sĩ Quý trong đội lên xem xét nói là ông ấy sốt rét cấp tính, rất nguy hiểm có thể chết vì kiệt lực nếu tiếp tục, cán bộ không thể cho đi được đề nghị cán bộ cho về nghỉ, cả đoàn phản ứng dữ dội, cuối cùng phân công 2 người cán về, từ đó ai báo bệnh cũng được nghỉ.

Người Bắc có câu “mền nắn rắn buông” quả không sai.

- Trong quân đội em còn dữ dội hơn, bởi bọn em dân bộ binh lâm trận sinh tử dài dài, đâu có ngán anh, ép quá là bọn em phản ứng ngay, không như công chức các anh cả đời cọ giấy, nhát như thỏ, tụi nó biết nhược điểm đó nên công chức nghe anh em nói lại bị ép hơn.

- Mà thôi, chuyện cũng đã qua rồi, anh em mình đã về, đến hôm nay còn hàn huyên là phước rồi, em biết không, tưởng anh bỏ mạng nời rừng thiêng rồi chứ, ai ngờ nhờ sắp chết mới được về, ghẻ từ nách đến chân, chỗ nào cũng có, cộng với sốt rét rừng, kiệt sức mê man bất tỉnh, một tuần sau đột ngột có giấy ra trại. Mừng như ngày trước đậu vào đệ thất trường công lập, anh nhớ em Quân ở trong xã này, ngày ra coi bảng ở trường trần Quốc Tuấn có tên trong danh sách trúng tuyển vào trường trung học đệ nhất cấp công lập, em chạy bộ thẳng từ trường về nhà hơn 15 cây số báo tin: “con đậu rồi”

- Dễ sợ vậy anh, ngày ấy đậu được vào trường công lập tự hào lắm. Anh tính sao bây giờ?

- Tính với toán gì em, về báo hại may mà có chị chưa đi nên bồi bổ và chăm sóc mới ổn được. Bây giờ bả đi không biết khi nào về, tết buồn hiu, hết buồn nỗi mình đến buồn nỗi vợ. Còn em tính sao?

- Cũng bế tắc như anh thôi, các con em còn nhỏ, có mấy sào vườn và mấy sào ruộng chăm chỉ lật đất ăn rồi hãy hay.

- Vậy thôi, lấy phước trời mà đong. Thời cuộc luôn đổi thay, thích nghi là chuyện không dễ tuy vậy trời đất hay lắm rồi cũng từ tốn đi qua như hết đông ảm đạm là xuân khoe sắc hương hoa phơi phới tâm hồn nhân gian.

Chúng ta là những công dân lạc loài, không có quyền làm người, của một giai đoạn lịch sử, chưa biết rồi đây tất cả những con người phục vụ cho chế độ VNCH sẽ về đâu, nguồn nhân trí lớn sẽ mai một, sẽ trở thành những nông phu hay có thể là một loại phu khác, anh cảm thấy thật tiếc quá cho lực lượng ấy, giá như chất xám đó được tôn trọng thì việc cống hiến để tái thiết nước nhà có lẽ sẽ nhanh hơn, buồn cho sự thanh cao trở thành trần trụi và dung tục, không biết các người cầm quyền có nhận ra, hiểu ra.

- Em tin mọi sự rồi sẽ qua đi trong giai đoạn mông muội.

- Đúng vậy, lịch sử đã đi qua, nào các triều đại bên Tàu từ Tam hoàng sang Ngũ đế rồi Đường, Tống đến Thanh và Mao chúng ta thấy quá rõ, có điều chính thể bây giờ Việt Nam ta lại bám chặt vào nó, nên khó lòng thoát khỏi vòng kim cô quấn chặt trên bộ đầu các ông lớn chính quyền Việt. Đây là bài toán khó giải quyết, phải có một minh quân hiển hiện may ra mới trục căn số bí hiểm này.

Trong kinh dịch có câu rất hay “cùng tất biến, biến tất thông” không thế hệ này thì thế hệ khác cũng tìm ra đáp số thôi, tuy nhiên rất phụ thuộc vào thời gian và dũng khí của người cầm quyền. Mau hay chậm là vấn đề nhận diện lại lịch sử và có phương hướng đúng, nếu phúc đức của non nước nhà chắc không xa và ngược lại.

Anh Hai gật gù, trầm ngâm và có vẻ bi quan:

- Đa số những cán bộ phường xã loàng xoàng quá, chỉ chạy núi về học vỏ vẻ lớp ba, lớp năm, có hiểu biết gì về hành chánh, quản trị cũng làm chủ tịch, bí thư.

- Mới chiếm được miền Nam nên nhân sự rất thiếu thốn, nhất thời phải vậy thôi, nhưng sau khi ổn định sẽ thay thế người có kiến thức chuyên môn hơn, sở dĩ họ hống hách làm ra vẻ ta đây bởi từ trên núi về lại không hiểu biết nên ra oai là thường tình của những kẻ cỏn con ấy, em đừng quan tâm chuyện đó, một vài năm sẽ loại ra thôi, đó là tất nhiên khách quan, vấn đề cần quan tâm là chính sách hậu chiến thế nào, ra sao, quyết sách nào phù hợp nhất cho miền Nam, liệu họ có bao dung và nghĩ suy đúng.

- Hình như họ trả thù dân Nam phải không anh, chứ cả dân Nam mình hiền lành, nhân văn từ người lính tham chiến như bọn em sống nay, chết mai ai cũng muốn hòa bình để có cuộc sống bình yên.

- Có thể như vậy, vì sao? Nếu như có hiệp thương hòa bình tình hình sẽ khác đi rất nhiều, đàng này là sự chiến thắng của chính quyền Hà Nội, trong công cuộc chiến thắng miền Nam sự phản ứng quá dũng cảm của quân đội miền Nam khiến cho binh sĩ và chính quyền Bắc Việt tức mình, đó là mẫu số chung. Nếu nhà cầm quyền hiểu được sự duy lý ấy, có chính sách độ lượng và bao dung hơn thì xương máu và mạng người dân Nam sẽ không đỗ ra sau khi kết thúc cuộc chiến.

Anh nghĩ ấy là sai lầm rất lớn của cả bộ đầu chính quyền phía Bắc. Lịch sử từ cổ chí kim sẽ thanh lọc để đi đến sự thật khi có những luận chứng biện minh.

- Anh nói hay quá, có thể lắm, vậy họ sẽ xét lại.

- Đúng thế, Mấy mươi năm nay, đầu óc họ toàn là duy lý và tệ hại nhất là chủ thuyết vô thần, khi không có thần thánh ngự trị và họ có thể làm bất cứ điều gì, thậm chí điều ác độc bởi thiếu triết lý nhân quả và siêu nhiên, nghĩa là thiếu niềm tin Trời đất, ấy là hiển nhiên. Triết học đã minh chứng hùng hồn rồi, con người rất nhỏ bé trong mênh mông vũ trụ, tự nhiên có quy luật của nó, cân bằng trong nhân thế là quy luật của tự nhiên.

Sự trả thù không thể hóa giải được thù hận. Chỉ có tâm từ bi, tính khoan dung, lòng

độ lượng mới giải quyết vấn đề này, đó là mấu chốt. Hiểu ra nguyên lý ấy thì nhanh, còn cứ mãi khư khư ôm lấy sự hống hách, tự mãn càng lâu. Nếu như nhà cầm quyền biết nghĩ lại và có giải pháp phù hợp chắc sẽ được.

Không ngẫu nhiên mà người ta đặt bệ thờ Thích Ca Mâu Ni, Giesu…đã từ hàng ngàn năm nay, nếu như các đạo giáo ấy không lợi lạc gì cho loài người, phải không nào?

Chính vì vậy họ phải xét lại thôi không chóng thì chầy.

- Cảm ơn anh, đã cho em hiểu thêm thế sự, giờ em ra ngoài để xem mấy cây hồng và thược dược, lúc vào em thấy trước nhà thích lắm.

Hai anh em cùng dạo ra khu vườn rộng, còn rất um tùm hoang dại, phía phải là vườn mì ta xanh um đầy sức sống, rồi quay vào trong sân, nắng xuân không gay gắt, cơn gió nhẹ mơn man trên tóc cảm nhận tự do là thật sau bao ngày nghẹt thở trong trại, mới đó cũng 6 tháng trôi qua, anh em vừa lững thững vừa nói chuyện, cặp phượng ta rực rỡ một vàng, một đỏ bên cạnh là cây mai tứ quý thân hình cao ỏng ẹo, chỉ lác đác hoa cánh lớn to, nó cũng vừa đi qua cơn bệnh sâu rầy thân, ông giáo nhờ người ta phun thuốc đã vài tháng, nó như thân ông và có ít hoa cũng vui trước sự hồi sinh của chính nó. Trước lan can là mấy cây hồng, vạn thọ và thược dược bông khá nhiều, như điểm tô căn nhà ngói mái đã lên rêu với thời gian, lòng hai người vui trong mùa xuân đầu tiên được tự do trên bản quán.