Dẫn nhập
TRONG SUỐT MÙA HÈ DÀI trước khi phiên tòa của mẹ tôi bắt đầu, và trong những ngày thu hanh khô sau đó, khi cuộc đời bà bị phê đấu trước cả hạt - thanh danh bà bị bêu xấu, kiến thức bà bị công kích - tôi đã nghe lỏm được nhiều hơn bố mẹ tôi tưởng, và tôi đã hiểu được nhiều hơn những điều họ muốn.
Thông qua tấm van nhiệt trên sàn phòng ngủ, tôi có thể nghe được những cuộc bàn luận của bố mẹ với luật sư trong phòng làm việc vào lúc tối muộn, sau khi người lớn nghĩ rằng tôi đã ngủ được nhiều giờ rồi. Nếu ba người tình cờ ở trong dãy phòng cạnh nhà bếp mà mẹ dùng làm phòng làm việc và phòng khám bệnh, có thể để tìm kiếm một tài liệu cũ trong hồ sơ của bà hoặc bệnh án sản khoa của bệnh nhân, thì tôi thường nằm trên sàn nhà tắm phía trên họ và lắng nghe giọng nói hai người đi lên phía tôi thông qua những lỗ khoan để lắp ống nước. Và dù tôi chưa bao giờ quá đáng đến nỗi nhấc điện thoại trên lầu lên khi nghe mẹ nói chuyện qua điện thoại phụ ở nhà bếp, tôi vẫn thường rón rén bước xuống cầu thang cho đến khi nghe được từng lời bà nói. Tôi hẳn đã nghe được hàng chục cuộc điện đàm theo kiểu này - đứng im bất động trên bậc thang cuối cùng, khuất khỏi tầm nhìn từ nhà bếp vì dây điện thoại chỉ dài một mét tám - và đến khi phiên tòa bắt đầu, tôi tin mình có thể dựng lại hầu như chính xác những gì luật sư, bạn bè, hoặc bà mụ nói ở đầu dây bên kia.
Tôi vốn đã thích quan sát nhất cử nhất động của bố mẹ, nhưng trong những tháng phiên tòa diễn ra, tôi càng trở nên đặc biệt sít sao. Tôi để ý những cuộc cãi vã của họ, và nhận thấy áp lực đã khiến cho các cuộc tranh cãi nhanh chóng trở nên căng thẳng; tôi nghe họ xin lỗi, một người thường nức nở, và rồi tôi sẽ đợi nghe những âm thanh nghèn nghẹt hơn (nhưng vẫn giải mã được) khi họ leo lên giường và yêu nhau. Tôi nắm được đại ý những cuộc bàn bạc của họ với các bác sĩ và luật sư, tôi hiểu tại sao một số nhân chứng lại đáng ghét hơn những người khác, tôi bắt đầu ghét những người mà tôi chưa từng gặp và chả biết mặt mũi ra sao. Chuyên gia pháp y của bang. Luật sư của bang. Một bà mụ có vẻ chuyên nghiệp đến từ Washington, D.C.
Vào buổi sáng thẩm phán ra chỉ thị cho bồi thẩm đoàn và yêu cầu họ hội ý để quyết định số phận mẹ tôi, tôi đã nghe luật sư của mẹ giải thích với bố mẹ điều mà ông cho là chuyện khó lý giải trong kiện tụng: Bạn có thể biết bồi thẩm đoàn đã quyết định gì vào thời điểm họ quay lại phòng xử sau khi nghị án, bằng cách họ nhìn bị cáo. Hoặc không nhìn anh ta. Nhưng đừng tin điều đó, ông ta bảo bố mẹ tôi. Đó chỉ là chuyện đồn thổi.
Tuy mùa thu năm ấy tôi đã mười bốn tuổi, nhưng với tôi, đó không đơn thuần là chuyện đồn thổi. Nó có độ tin cậy như tôi đã từng nghe trong chuyện kể của nhiều bà vợ - và bà mụ, một lẽ hiển nhiên được xác tín chắc chắn qua nhiều thế kỉ quan sát. Trẻ con chào đời khi trăng tròn. Nếu khoai tây luộc bị khét, trời sẽ mưa trước buổi tối. Một con sâu bướm lông rậm là dấu hiệu của mùa đông lạnh giá. Đừng bao giờ nấu đường cho đến khi sông ngòi chảy trở lại.
Luật sư của mẹ có thể không tin vào chuyện đồn thổi mà ông kể với bố mẹ tôi, nhưng tôi thì chắc chắn là tin. Tôi thấy nó có lý. Tôi đã nghe ngóng được nhiều điều trong sáu tháng qua. Tôi biết rõ chuyện đồn thổi nào nên tin, còn chuyện nào nên bỏ qua.
Và vì thế khi bồi thẩm đoàn bước vào phòng xử án, một tu đoàn tông đồ gồm mười hai người, tôi đã quan sát ánh mắt họ. Tôi quan sát xem họ sẽ nhìn mẹ tôi hay nhìn đi nơi khác. Ngồi cạnh bố ở hàng ghế thứ nhất, ngay sau lưng mẹ và luật sư của bà như tôi đã ngồi mỗi ngày trong suốt hai tuần, tôi bắt đầu thầm cầu nguyện: Xin đừng nhìn xuống giày của các ông bà, xin đừng nhìn thẩm phán. Đừng nhìn xuống hoặc lên hoặc ra ngoài cửa sổ. Làm ơn, làm ơn, hãy nhìn tôi, hãy nhìn mẹ tôi. Hãy nhìn chúng tôi, nhìn đây, nhìn đây, nhìn đây.
Tôi quan sát các bồi thẩm viên trong nhiều ngày liền, tôi thấy họ quan sát tôi. Tôi đếm râu, tôi để ý từng nếp nhăn, tôi dán mắt một cách vô cớ và bất lịch sự vào dáng ngồi của người sau này trở thành chủ tịch bồi thẩm đoàn, khoanh tay trước ngực, giấu bàn tay đã bị biến dạng nhiều năm trước vì một chiếc cưa máy. Ông ta có một ngón tay cái, nhưng không có những ngón còn lại.
Họ bước vào từ căn phòng liền kề với mười hai chiếc ghế của họ và tìm chỗ ngồi. Vài người phụ nữ bắt chéo chân, một người đàn ông dụi mắt và ngả ghế ra sau một lúc. Một vài người nhìn về bức tường cuối phòng xử án, một vài người nhìn về phía biển hiệu thoát hiểm nằm trên cửa chính tựa như nhận ra rằng bi kịch của họ sắp kết thúc và sự giải thoát đang nằm trong tay.
Có một người, một bà đứng tuổi tóc bạc với một tủ quần áo đầy những chiếc váy hoa đỏ cực đẹp, người mà tôi tin chắc là mang họ Lipponcott đến từ Craftsbury, đã nhìn về phía sau nơi có chiếc bàn của luật sư bang và trợ lý của ông ta.
Và đó là khi tôi suy sụp. Tôi cố không làm thế, nhưng tôi có thể cảm thấy mắt mình ngấn nước, tôi có thể cảm thấy vai mình bắt đầu run lên. Tôi chớp mắt, nhưng mi mắt của một đứa con gái mười bốn tuổi không thể diễn tả nỗi đau đớn mà tôi đang chất chứa trong lòng. Tiếng khóc của tôi lúc đầu còn lặng lẽ, âm thanh của một lời thì thầm ai oán, nhưng nó nhanh chóng biến thành cuồng nộ. Người ta nói tôi đã rú lên.
Và dù tôi chẳng lấy gì làm tự hào về bất cứ cơn kích động nào mà tôi đã bộc phát ngày hôm đó trong phòng xử án, tôi cũng không xấu hổ vì nó. Nếu có ai phải cảm thấy hổ thẹn vì bất cứ chuyện gì đã xảy ra vào khoảnh khắc ấy trong một căn phòng xử án nhỏ bé ở Đông Bắc Vermont, thì theo tôi, đó chính là bồi thẩm đoàn: Giữa những tiếng nức nở và gào thét của tôi, người ta nói rằng tôi đã lớn tiếng van nài, “Hãy nhìn chúng tôi! Ôi Chúa ơi, xin làm ơn, làm ơn nhìn chúng tôi đây này!”. Vậy mà vẫn không có một thành viên bồi thẩm đoàn nào buồn liếc mắt về phía mẹ tôi hoặc tôi lấy một cái.