Chương 1
Đã qua nửa đêm... Lương phu nhân hạ bút và gấp sổ thu chi lại. Ngôi nhà hoàn toàn im vắng. Tại tầng dưới, trong nhà hàng chỉ còn thưa thớt một vài thực khách đang ngồi nán lại. Ba xô ghế đứng dậy, chiếc ghế bành lớn bằng gỗ gụ, cùng bộ với cái bàn viết kiểu Trung Hoa nặng nề mà bà đã thừa hưởng của thân phụ, và mang từ quê nhà, tại một tỉnh xa đến đây. Bà đến bên cửa sổ, nhưng không vén mơ cánh rèm xa tanh màu đỏ. Mặc dầu được sống yên ổn, với tư cách là chủ nhân một nhà hàng đẹp nhất trong các khu tân tiến ở thành phố Thượng Hải, bà cũng không dại gì để bóng dáng mình in lên khuôn kính một căn phòng sáng trưng ánh đèn. Nào ai biết được kẻ thù đang ẩn nấp nơi đâu. Thiếu gì kẻ thấy bà nổi tiếng rồi ghen ghét. Chẳng ai biết bà đã xoay sở cách nào, để hàng ngày vẫn cung cấp được những món ăn thật đặc biệt, cho khách hàng là các nhân vật quan trọng trong chính giới, các đại thương gia tỷ phú, và các sĩ quan cao cấp trong quân đội. Hầu hết họ là bạn thân của bà. Bà ung dung đi đi lại lại trong nhà hàng, bề ngoài xem như chẳng quan tâm gì đến các sự lộn xộn chính trị. Chắc có nhiều kẻ ghen ghét, hậm hực với bà. Vì thế bà không vén rèm, mà chỉ luồn người ra ngoài để hé mở cửa sổ.
Trong bầu không khí ấm áp của một buổi tối đầu hè, hương hoa nhài bay lên thoang thoảng. Ngôi nhà của bà trước kia là của một gia đình người Mỹ giàu có, bạn thân của bà. Sau khi có cuộc sung công các nghiệp vụ xuất nhập cảng tại Trung Hoa, gia đình này đã phải trở về nước. Lương phu nhân đã mua lại ngôi nhà này, cùng các khu vườn trong tô giới Anh cũ. Có rất nhiều người Mỹ cư ngụ trong tô giới Pháp và Anh, vì họ không có tô giới riêng. Trước khi Hồng Quân tiến chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa, Lương phu nhân có nhiều bạn hữu trong đám người Mỹ này, vì vậy bà đã gởi ba ái nữ sang Hoa Kỳ du học. Giờ đây, dĩ nhiên là không còn một người Mỹ nào tại Trung quốc, nên cả một thế hệ thanh niên Trung Hoa, lớn lên mà chẳng biết mặt một người Mỹ nào, cũng như chẳng được nghe đến một tiếng Anh nào. Họ chỉ được nghe tiếng nói của hận thù đối với một dân tộc, mà riêng bà lại thấy là ít đáng hận thù hơn các người Tây phương khác. Người Mỹ là những người da trắng duy nhất không tàn ác, không cướp đất của người Trung Hoa.
Bà thở dài nghĩ đến cái gia đình đầm ấm xưa kia đã cư ngụ dưới mái nhà này: Ông bà Brandon và năm người con. Họ yêu quí nước Trung Hoa biết dường nào. Họ yêu quí nước này đến nỗi đồ đạc trong nhà hoàn toàn theo kiểu Trung Quốc, với những bức tranh thủy mặc treo trên tường. Họ đã phải hấp tấp lìa bỏ tất cả, và Lương phu nhân đã lén bước sang nhà họ để tiễn chào vĩnh biệt. Bà Brandon đã tựa vào vai bà, khóc nức nở:
- Ba Lương ơi: Sau này họ có cho chúng tôi trở lại nữa không?
Bà xiết chặt người đàn bà Mỹ trong vòng tay mà chẳng trả lời. Làm sao ba có thể trả lời được rằng: “Bà sẽ không bao giờ được trở lại nữa”. Bởi vậy, tốt hơn là bà lặng thinh, và năm tháng cứ trôi qua trong khi đời sống càng ngày càng trở nên khó khăn hơn. Nhưng bà đã gởi mấy cô con gái của bà sang Hoa Kỳ sống với gia đình Brandon, và thỉnh thoảng...
Bà đang mơ màng thì vú Chu, người vú già trung thành xuất hiện.
- Thưa bà, bà đến gần cửa sổ làm chi? Tấm rèm không che dấu được bà đâu. Thật vậy đó, thưa bà. Tối hôm qua, chính con đã xuống dưới đường và nhìn rõ bóng bà, dáng bà.
Lương phu nhân vặn lại:
- Nhưng người ta làm sao biết được bóng đó, dáng đó, là của ai? Tuy vậy, bà cũng nghe theo, và để người vú già dùng bàn tay thành thạo cởi xiêm áo mình ra để đi tắm.
Người vú già nói:
- Tất cả mọi người hiện đang ở đâu.
Và để chứng tỏ không điều gì có thể dấu ông ta được, ông biết rõ mọi việc, ông kể ra mọi chi tiết:
- lầu nầy. Bọn đó biết hết.
- Chẳng biết người ta đang làm cái trò quỷ quái gì đây? Lương phu nhân nghiêm nghị truyền:
- tôi biết cô ấy kiếm được khá nhiều tiền, và cô không gởi tiền về cho đồng chí...
Lương phu nhân ngắt lời:
- Tôi không trắng nõn, vóc dáng thanh tú, bộ ngực nhỏ, tròn, và chiếc gáy đan thanh tuyệt mỹ của bà chủ. Người vú nói:
- Nước đã đủ nóng, mời bà vào tắm. Trong lúc chờ đợi, con dọn giường cho bà ngủ, rồi sẽ chải tóc cho bà.
Lương phu nhân đi vào phòng tắm. Bà là một trong số rất ít, rất hiếm người còn hưởng được những tiện nghi của thời quá khứ. Về điểm này, bà biết ơn ông Lương-Cheng, người chồng mà bà đã giã biệt từ bao năm rồi. Ông là bạn cũ của Tôn-Dật-Tiên, vị lãnh tụ tối cao của cuộc cách mạng, và thế hê mới đã kính trọng bà như là nội tướng của ông Lương-Cheng (bà vẫn giữ được danh nghĩa này vì bà chẳng bao giờ quan tâm đến việc ly dị). Vả lại, sự thành công riêng của bà cũng đã góp phần không nhỏ vào địa vị ưu đãi này. Những lãnh tụ mới đều là người Trung Hoa nên rất sành ăn. Trong thời buổi khó khăn này, làm gì còn những món ăn tuyệt diệu như ngày xưa: ca đồng thịt rất mềm, vịt Bắc Kinh nuôi dưỡng theo một phương pháp đặc biệt, đùi heo muối Trấn Giang, cháo kê miền Bắc, và chả heo ướp gia vị hay đường phèn. Lương phu nhân may mắn còn giữ được người đầu bếp, mặc dù thời buổi giặc gia và những cuộc đổi thay chính phủ.
Bà chăng? Nhưng tại miền rừng núi phía Nam nước ta cũng có loại cây này. Tôi đã trông thấy tận mắt: một cây giống như cây hoa trinh nữ.
- Con đến vai, bà thầm biết ơn các kỹ thuật gia người Mỹ đã nổi tiếng, giáo sư này...
- Con đồng chí không cần đến người đó.
- Nhưng con tôi đúc kết tất cả các điều hiểu biết ta cao rao nào là sự chối bỏ, nào là sự bình đẳng v.v... thì bà giữ im lặng, nhưng không vì thế mà bà không nghĩ rằng, phải hưởng thụ cuộc đời trong phạm vi ngũ thường của đạo làm người, và rằng sự bình đẳng chỉ là một ước mơ - đó là điều mà cha mẹ bà là những người theo Khổng giáo đã truyền dạy. Trên đời này có những người khờ khạo, có ke ít khờ khạo hơn, mà cũng có những ke chẳng khờ khạo chút nào. Không ai có thể thay đổi cái chân lý vĩnh cửu này được.
Người vú già bỗng lên tiếng:
- Thưa bà, con nghe có tiếng bước chân.
Lương phu nhân lắng nghe:
- Tôi có nghe thấy gì đâu. Vú đã khóa các cửa ngõ chưa?
Người vú già phật lòng.
- Con có bao giờ quên đâu?
- Hãy ra nghe đi.
Rồi bà cũng bước ra khỏi phòng tắm, lấy khăn lau mình kỹ càng, và xức dầu thơm hoa sơn chi. Xưa nay bà vẫn thường xức thứ dầu thơm này, nên da thịt bà được ướp kỹ đến độ mùi hương thường phảng phất chung quanh bà. Đêm tân hôn cách đây bao năm về trước, bà cũng xức dầu thơm như thế. Chàng thanh niên nóng nảy mà bà đã chọn làm chúng ta sẽ hay hơn các cuốn lộn xộn của người Tây phương, kể cả những cuốn nói về riêng một loại cây thôi.
Lương phu nhân đưa chiếc hạ của Tôn Dật Tiên. Họ trở về Bắc kinh để tham gia cách mạng.
Sau này, khi họ báo tin quyết định việc thành hôn, Tôn Dật- Tiên đã nói: “Anh Cheng là người cần thiết cho tôi, và chị đúng là người mà tôi đã muốn chọn cho anh ấy lấy làm vợ. Chị là người giàu nghị lực, còn anh ấy thì... ờ, thì quá hăng say!”
Rồi Tôn Dật Tiên sai một người giúp việc đi mời bà vợ trẻ đẹp mà ông vừa mới cưới đến. Ông nói: “Hai cô cậu này sắp lấy nhau. Họ yêu nhau theo cung cách Tây phương. Họ rất đẹp đôi. Chàng mạng hỏa nàng mạng thổ”.
Ngày hôm đó Lương phu nhân cảm thấy thần chết lởn vởn bên Tôn Dật Tiên: Ông chỉ còn da bọc xương với đôi mắt đen trũng xuống thật sâu. Ba tháng sau, Tôn tiên sinh qua đời vì bị ung thư gan, lòng còn uất hận vì định mệnh đã không để cho mình hoàn tất nhiệm vụ. Phải chăng Tôn tiên sinh đã chia sẻ sự linh cảm của Lương phu nhân, nên đã kết hợp bàn tay ba vào với bàn tay của chồng bà trong tay của tiên sinh và căn dặn:
- Hãy tiếp tục công cuộc cách mạng. Dầu tôi có sống hay đã chết, tôi cũng giao phó cho anh chị những gì mà tôi đã bắt đầu.
Tôn tiên sinh chết trước khi họ cưới nhau. Hôn lê được cử hành theo cổ tục, vì hai người đã trở về với gia đình: bà về cố đô Nam kinh nằm trong tỉnh Quảng Châu trù phú, còn ông thì trở lại Bắc kinh. Từ ngày ký hôn ước và trao đổi phẩm vật cho đến ngày cưới, bà không gặp ông lần nào.
Người vú trơ vào báo tin:
- Có tiếng chân người dừng lại trước cổng. Con không biết là ai, anh chàng đang nghe ngóng ngoài cổng, và khi nhòm qua lỗ khóa, con trông thấy một con mắt. Hắn cũng nhìn thấy con, rồi bỏ đi.
- Tại sao vú lại nói là “anh chàng”? Chỉ thấy một con mắt thôi, thì làm sao vú biết được đó là đàn ông hay đàn bà?
- Ồ con chắc chắn như vậy, vì đó là một con mắt đen và qua cảm.
Lương phu nhân vặn lại:
- Thời buổi này mọi con mắt đều qua cảm và đều đen, vì chẳng còn người ngoại quốc nào ở lại đây nữa.
Nhưng chẳng muốn tranh luận với vú Chu, Lương phu nhân đi vào phòng ngủ, khoác cái áo ngủ bằng lụa trắng mà người vú già đã sắp sẵn. Khi bà đến ngồi trước bàn phấn, vú Chu bắt đầu chải mái tóc dài của bà. Tuy đã năm mươi tư tuổi, nhưng tóc bà vẫn còn đen tuyền, chưa có sợi nào bạc.
Người tớ già tấm tắc khen:
- Tóc bà vẫn còn đẹp như hồi tối tân hôn. Lương phu nhân lơ đãng cho các con bà, dĩ nhiên là đã bị bóc ra và đọc hết. Nhưng còn những bức thư khác thì sao, một loại tin vắn tắt dấu trong các gói quà gởi đi, qua trung gian của người đầy tớ già.
Vú Chu đưa cánh tay áo lên dụi mắt, rồi tiếp:
- Ôi, đêm đó làm sao có thế quên được? Đức lang quân của bà xuất hiện trên ngưỡng cửa, và con đã nói: “Ông đến sớm quá, thật mắc cỡ. Hãy đợi con ra khỏi đã”. Nhưng ai ngờ mười mấy năm sau, khi sinh cô ba, ông đã...
- Thôi, hãy im đi!
Vú Chu vâng lời, chẳng dám mơ miệng nữa, tiếp tục ngồi tết tóc cho chủ đi ngủ.
Lương phu nhân sai:
- Vú đi mang hộp tiền lại đây.
Chiếc hộp đựng tiền bằng gỗ đánh bóng, có khóa lớn bằng đồng, nặng đến nỗi bà vú phải kéo lê dưới sàn, trước khi đem đặt lên tấm thảm Bắc kinh, trang trí nhiều họa tiết màu xanh và trắng.
- Mơ ra, đếm xem hôm nay thu được bao nhiêu.
Vú Chu mở hộp đếm tiền trước mặt Lương phu nhân, rồi thưa:
- Thưa bà, hai trăm đồng và năm mươi xu ạ...
- Hôm nay thu nhiều là vì có bữa tiệc của ông Bộ trưởng. Được rồi, hãy khóa hộp tiền lại và đẩy vào gầm giường như mọi khi. Ngày mai vú cất tiền vào tủ sắt. Nếu có ai hỏi trong đó có bao nhiêu tiền, hãy trả lời là vú không biết gì hết nhé. Phần tôi, tôi sẽ nói rằng, nhơ sự rộng rãi của ông Bộ trưởng, tôi đã cúng vào Hợp tác xã Hưng Giang.
- Thưa bà, bao giờ bà cũng khôn ngoan, khéo léo.
Người vú già đợi bà chủ lên nằm trên chiếc giường cao, kiểu cổ, đoạn lấy tấm chăn lụa phủ chân bà, rồi mới kéo bức màn thếu lại. Cái giường này Lương phu nhân đã đem về từ một tỉnh xa, nơi ông Cheng trị nhậm, và cũng là nơi mà ba đã sống với ông cho đến ngày sinh hàng chữ tiếng Anh viết xấu và gẫy nét, còn hàng chữ Trung hoa thì viết thật đẹp. Diễm mở phong thư này trước tiên, rút ra một tờ giấy mỏng làm bằng chất cho ông ấy ngủ với những người đàn bà khác.
Cái giường được chuyên chở đến Thượng Hải bằng xe vận tải, rồi bằng tàu thủy, và trước hết được kê trong ngôi nhà mà bà đã thuê để mở nhà hàng. Khi mua lại ngôi nhà nầy của người bạn Mỹ, mặc dầu đã được trang bị đầy đủ, ba cũng đem cái giường ấy về. Mỗi khi nghĩ đến những kỷ niệm đau buồn mà chiếc giường đã khơi lại cho bà, bà tự hỏi vì sao lại có thể như vậy được. Sau bao năm trường chung hưởng hạnh phúc, một cuộc cãi vã cuối cùng với ông Cheng đã xảy ra trên chiếc giường này, sau bức màn xa tanh. Bà đã khước từ mọi lý lẽ của chồng và lạnh lùng nói:
- Chúng ta đã đồng ý là cuộc hôn nhân của chúng ta không giống như cuộc hôn nhân của cha mẹ chúng ta. Tôi đã bảo, tôi không chấp nhận kéo lê cuộc sống như cuộc sống của mẹ tôi, khi cha tôi hết đem cô vợ be nầy đến cô vợ bé khác về nhà.
- Em không sinh cho anh một đứa con trai nào cả!
- Làm sao tôi có thể sinh con trai theo ý muốn được?
Sau này, bà đọc thấy trong một cuốn sách Tây phương nói rằng, chính người đàn ông đóng vai trò quyết định trong việc sinh con trai hay con gái. Nhưng hồi đó người ta chưa có loại kiến thức này, và bà thấy mình bị xếp vào hạng đàn bà bị chồng phiền trách vì không sinh được con trai cho họ. Ít ra, bà đã không thụ động chấp nhận quyết định cưới vợ lẽ của chồng, mà cũng không nhận là mình có lỗi. Trái lại, bà đã vùng lên chống đối dữ dội.
- Anh không còn yêu em nữa sao? Chồng bà năn nỉ:
- Anh vẫn yêu em đấy chứ, nhưng hỡi em thân yêu, hãy nghe lời anh. Cô gái đó hiện đã có thai. Nếu cô ta sinh con trai thì sao?
Bà nổi giận phản đối:
- Anh xử sự cứ y như đang sống ở Paris. Ông cười đáp:
- Anh đã học hỏi được rất nhiều điều ở Paris.
Trước đó, hai người đã có nhiều lần cãi vã, nhưng đây mới thật là lần cãi vã cuối cùng. Qua vậy, cô gái đó đã sinh cho ông một đứa con trai; và bất giác bị thúc đẩy bởi những phong tục của tổ tiên, ông đã đưa cô ta về nhà với tư cách là vợ bé, để đứa trẻ được mang tên họ của ông và có một địa vị trong gia đình, cao hơn địa vị các cô gái con của bà. Phải chăng chỉ vì một đứa con trai? Từ đó, Lương phu nhân không còn cãi vã với chồng nữa, kê ca lúc từ bỏ ông. Một lần nữa, tiếng người vú già lại lôi bà ra khỏi phút mơ màng:
- Thưa bà, vì có tiếng chân người lúc nãy, có nên để lại một ngọn đèn không ạ?
Lương phu nhân suy nghĩ:
- Hãy để chiếc đèn con trên lò sưởi.
Bà chưa bao giờ sử dụng cái lò sưởi của ngôi nhà nầy. Khi còn cư ngụ tại đây, về mùa đông, các người ngoại quốc chất đầy than trên tấm lưới sắt, và lửa cháy hoài
Chị Hai nhìn tôi trân trối rồi vụt ôm mặt khóc ngất. Chị đã nhớ lại cái vị trí "con sen" của mình, chị đã nhớ lại "tháng chồng cù lần" đang ở dưới quê. Và chị tủi vo ve trong màn, đó là con muỗi phalène mầu xanh, thấy ánh đèn nó lao đến, nhưng ác thay cứ bị lưới màn chận lại. Nàng ngồi lên, luồn bàn tay sát lưới lưới màn và bắt được trong tay con muỗi phalène để ngắm nhìn đôi cánh trong suốt của nó. Rồi nàng mở cửa sổ, thả con muỗi ra ngoài đêm tối.
Nàng lẩm bẩm: “Nu tiech” tiếng Trung mất rồi. Khi xuống dưới nhà hàng, để che dấu chiếc áo dài bằng xa tanh, bà đã mặc ra ngoài một chiếc áo khác bằng vải, đơn sơ nhưng không kém phần lịch sự. Bà thường nói như để bào chữa rằng, vào tuổi bà không cần thiết phải bận đồng phục mười lăm tuổi, mẹ nàng đã gởi nàng sang Mỹ để học đàn dương cầm. Chỉ cách đây ba năm nàng mới quyết định chuyên về khoa học. Hồi còn theo học trường trong một khung cảnh thẩm mỹ, tại một đô thị sầm uất. Ôi, ba không muốn nghĩ đến thân phụ bà! Cụ đã bị giết... không, chẳng nên nghĩ đến chuyện này. Tốt hơn, là chỉ nên nghĩ đến cụ, vào cái thời mà bà tuy còn nhỏ tuổi, đã muốn thoát ly khỏi vòng kiềm tỏa của những phong tục cổ hủ.
Thân phụ bà buồn rầu nói:
- Con ơi, cha có bắt buộc con phải làm gì đâu? Cha đâu có bắt con phải bó chân khi con còn nhỏ? Cha đâu có ép con lấy con trai một ông bạn già của cha, người đã đính hôn với con ngay từ khi con mới lọt lòng? Cha đâu có cấm con không được học chữ, tuy biết rằng điều này chẳng ích lợi gì cho một người đàn bà! Con hãy ngẫm lại mà xem.
- Xin phép cha cho con sang Paris du học.
Vì thế, ba đã qua Paris, thành phố của thẩm mỹ, và tại đây bà đã gặp Cheng và Tào Chân - vị Bộ trưởng hiện thời - cùng các thanh niên nam nữ khác, là những người được hun đúc bởi ngọn lửa cách mạng. Sau này, cái đẹp đã bị lãng quên, đã bị phai mờ qua những thất bại và thất vọng của cuộc cách mạng. Cheng vận động và được cử làm Tổng đốc một tỉnh xa, nên ba đã theo ông đến nơi lưu đày đó. Nhưng tại đây ba đã tìm được cái đẹp của những khu vườn nép mình sau những bức tường thành cổ kính, của những viên đình trong các trang viện cổ xưa, mênh mông bát ngát.
Và rồi một lần nữa cái đẹp lại bị che lấp. Cuộc xâm lăng của ngoại bang đã làm cho lu mờ cái đẹp - Ôi! đây đúng là sự tàn pha linh hồn. Bà đã biết tất cả các biện thuyết nại ra để chống lại cái đẹp: dân chúng sẽ có cơm ăn áo mặc đầy đủ hơn; sự thối nát sẽ không còn nữa; người ta đã xây cầu cống, diệt trừ nạn lụt, tiêu diệt cả ruồi và chuột. Phải, nhưng cái đẹp đã chết. Bây giờ bà chỉ còn vớt vát lại cái đẹp vụn vặt qua các đồ trang sức, qua chiếc áo dài, qua nhà cửa, vườn tược, và qua âm nhạc của bà. Căn phòng rộng lớn ở tầng trệt được đặc biệt dành cho những bữa tiệc của các nhân vật thật quan trọng. Và người đầu bếp của bà đã mua không tiếc tiền, để làm sống lại những món ăn tuyệt hảo ngày xưa, của những người sành ăn, mà các thế hệ Trung Hoa hiện thời không được biết, nhưng sẽ kín đáo thưởng thức nếu có dịp. Trong căn phòng này có một chiếc dương cầm lớn, hiệu Steinway, mà gia đình Brandon đã để lại khi bỏ chạy. Lương phu nhân đã mua lại chiếc dương cầm và các đồ đạc khác, nhờ số vốn cất dấu tại một ngân hàng bên Mỹ. Đã từ lâu, sau khi từ bỏ chồng và mở nhà hàng này, bà đã gởi những số tiền dành dụm được sang ngân hàng bên ấy. Tiền bạc chỉ được an toàn tại Thụy sĩ, hoặc tại Hoa Kỳ. Bà đã chọn quốc gia thứ hai, là nơi bà muốn gởi mấy ái nữ sang du học, và bà đã thành công. Bà lấy làm mừng đã thực hiện được việc này kịp thời, vì bây giờ chắc là không còn có thể được nữa. Sống bên Mỹ, các con gái bà thoát được nạn giặc giã, các cuộc nói:
“Là người Trung Hoa, chúng ta đừng có quên rằng, chúng ta là một dân tộc đàn anh trên thế giới. Mọi dân tộc khác đều kính nể trên chiếc giường lớn. Mặc dù chăn ấm nệm êm, bà vẫn không thế nào ngủ được. Đang độ trăng tròn, ánh trăng vằng vặc lọt qua rèm cửa. Ba hồi tưởng lại khuôn trăng ngày trước, mà bà đã nhắm nhìn trong khu vườn của ngôi nhà thân phụ. Vào những đêm trăng tròn, cụ đã họp cả gia đình lại ngoài sân, bên những cánh sen đang nở trong các bể cạn, để vừa ăn bánh ngọt vừa nghe tấu nhạc, bằng đàn lục huyền, hoặc tiêu. Trong đám gia nhân thường có người biết chơi đàn hoặc thổi tiêu. Thân phụ bà thích âm nhạc đến nỗi, cụ có thể châm chế cho sự lười biếng, hoặc ngay ca sự ương ngạnh của gia nhân, miễn hắn ta là nhạc sĩ. Sau đó nhiều năm, khi cụ trông thấy chiếc dương cầm lần đầu và được nghe cái âm thanh tuyệt diệu của nó, thì cụ rất lấy làm khoái trá.
Cụ than:
- Sao không ai nói cho ta biết về nhạc cụ này cả thế nhỉ?
Họ đang ở trên tàu thủy của một hãng tầu người Anh. Năm ấy thân phụ bà muốn dùng đường sông để đến Cửu Giang, rồi từ đó sẽ dùng kiệu lên dãy Lư Sơn gần thành phố. Khi lên tàu, họ gặp phải khó khăn, là các hành khách người Trung Hoa không được đi phòng hạng nhất. Nhưng vì thân phụ bà là nhân vật quan trọng, nên người ta đã dành cho cụ một ngoại lệ, và cấp cho họ sáu phòng, nhưng xa những phòng có người ngoại quốc mướn. Phải, đúng là sáu phòng, vì cụ không thể đi du lịch mà không đem theo các người vợ bé, và cô con gái độc nhất của cụ. Ba chính thất, tức là mẹ của con gái cưng của cụ, không đi theo vì không muốn xa nhà.
Cụ ba đã nại lý: “gió và nước tại những miền xa lạ thường làm cho ta bệnh”. Nhưng con gái của cụ, mặc dù lúc đó còn nhỏ tuổi, cũng đã hiểu là mẹ nàng đau Vương An Thạch nữa. Vậy thì, mọi sự sẽ sẽ đâu vào đấy...".
Diễm mỉm cười khi đọc bức thư này. Nàng biết rằng, mẹ nàng đã bắt tay vào việc nghiên cứu lịch sử nước Trung tôi muốn mua một chiếc dương cầm.
Người Anh trẻ tuổi lấy làm ngạc nhiên, nhưng vẫn giữ vẻ lạnh lùng:
- Xin mời đi lối này.
Anh ta dẫn họ đến một gian phòng rộng, đầy những chiếc dương cầm mới tinh. Nhà triệu phú Trung Hoa chăm chú nghe người bán hàng trẻ tuổi người Anh, lướt ngón tay dạo thử trên mỗi chiếc dương cầm, và cụ chọn mua một chiếc gỗ mun đen.
Người bán hàng nói:
- Thưa cụ, tôi xin có lời mừng. Cụ đã chọn được chiếc dương cầm tốt nhất.
Chiếc dương cầm giá rất đắt nhưng hồi đó cụ chẳng thiếu gì tiền, và người quản gia luôn luôn theo hầu bên cụ, đã trả bằng bạc Mễ-Tây-Cơ: từng cuộn giấy bạc gói trong giấy màu nâu. Đó là thứ tiền thông dụng hồi ấy. Nhưng tại sao lại là tiền Mễ-Tây-Cơ thì bà chẳng bao giờ hiểu. Bây giờ đã dĩ nhiên là người ta chỉ dùng tiền Trung Hoa, hay là tiền Trung cộng, nếu muốn gọi như thế. Lương phu nhân chẳng tin tưởng gì vào cái thời đại mới này, và nhận thấy tốt hơn hết là tích trữ vàng bạc và cất dấu vào một nơi kín đáo. Những người thân tín của bà có nhiệm vụ lén đem vàng lại nhà cho bà dưới mọi hình thức: đồ nữ trang mua lại của những nhà giàu có xưa kia, những nàng còn thơ ấu, với niềm xúc động khi trông thấy những đứa trẻ èo uột, bệnh tật, hay những đôi mắt mù lòa vì hai mi đầy mủ gắn chặt vào nhau.
Hồi mật, gắn chìm vào trong bức tường phòng ngủ. Bề ngoài, trong đó chỉ là một tủ đựng phấn son, nhưng cái đáy thứ hai đã đầy vàng tới phân nửa. Nghĩ đến kho tàng này, bà cảm thấy phấn khởi trong lòng, và sau rốt, bà đã ngủ được.
Sinh quán tại Tô Châu, mẹ bà nhỏ nhắn, có vóc dáng mảnh mai của người vùng này. Khi ba cụ qua đời vào năm sáu mươi tuổi, vì bệnh thổ tả, mặt cụ vẫn còn Tại sao họ qua nghèo! Đi nằm bệnh viện ở Bắc Kinh tốn nhiều tiền lắm.
- Thế tại sao ta không cho họ tiền hở mẹ?
- Vì tổ tiên, cụ quản trị gia đình một cách cương quyết đã thúc đẩy Diễm quyết định. Cho tới bây giờ, nàng vẫn còn nhớ rõ khuôn mặt của những kẻ đó, những đồng bào của nàng, Đúng, nàng phải trở về với thú ngắm nhìn những sợi giây, những chiếc búa nhỏ đầu phủ nỉ, và quyết định mua ngay một chiếc tại Thượng Hải, nơi duy nhất có bán thứ đàn này hôm quyết định. Cho tới bây giờ, nàng vẫn còn nhớ rõ khuôn mặt của những kẻ đó, những đồng bào của nàng, Đúng, nàng phải trở về với họ, nếu không, nàng sẽ chẳng bao giờ tìm được hạnh phúc.