Chương 19
Thời của số học và thơ ca đã qua. Ngày nay, hỡi anh em, hãy nhận những bài học từ tiểu liên Kalasnikov và ống phóng tên lửa.
- Dòng chữ sơn trên tường sân trường Korphe.
“Cái gì vậy?” Mortenson hỏi. “Chúng ta đang nhìn thấy cái gì đây?”
“Một madrassa, Greg Sahib.” Apo nói.
Mortenson yêu cầu Hussain dừng chiếc Land Cruiser để anh có thể nhìn tòa nhà mới rõ hơn. Anh trèo ra khỏi xe và tựa lưng vào mui xe trong khi Hussain nhàn rỗi phía sau tay lái, vẩy tàn thuốc một cách bất cẩn lên trên chiếc hộp gỗ chứa thuốc nổ.
Mortenson đánh giá cao phong cách sẵn sàng, có phương pháp của người tài xế khi đi trên những con đường tệ hại nhất củaPakistan và miễn cưỡng phê bình anh ta. Qua hàng nghìn dặm đường núi, anh ta chưa hề gây ra tai nạn nhưng sẽ không là gì cả nếu xảy ra một vụ nổ. Mortenson tự hứa với mình phải bọc lại thùng chất nổ trong vải nhựa khi họ trở về Skardu.
Mortenson đứng thẳng người với một tiếng cằn nhằn và xem xét cấu trúc chế ngự phía tây thung lũng Shigar, trong thị trấn Gulapor. Đó là một khu nhà dài một trăm tám mươi mét, khuất tầm mắt của khách qua đường sau những bức tường cao sáu mét. Giống như một thứ gì mà Mortenson nghĩ là chỉ thấy ở Waziristan chứ không phải chỉ cách Skardu vài giờ xe. “Anh có chắc đó không phải là một căn cứ quân sự?” Mortenson hỏi.
“Đây là một chỗ mới.” Apo nói. “Một Wahhabi madrassa.”
“Vì sao họ lại cần nhiều diện tích đến thế?”
“Wahhabi madrassa giống như một...” Apo kéo dài giọng, tìm từ tiếng Anh.
Anh ta dịu giọng để tạo ra một âm thanh ù ù.
“Ong?” Mortenson hỏi.
“Phải, giống như một tổ ong, Wahhabi madrassa có nhiều học sinh ẩn bên trong.”
Mortenson leo vào xe trở lại, sau thùng thuốc nổ.
Tám mươi kilômét phía đông Skardu, Mortenson nhận ra hai tháp giáo đường màu trắng đâm lên trên nền cây xanh ở ven một ngôi làng nghèo tên là Yugo. “Dân làng này lấy đâu ra tiền để xây một giáo đường mới như thế?” Mortenson hỏi.
“Đó cũng là “Wahhabi.” Apo nói. “Các lãnh tụ Hồi giáo đến từ Kuwait và Ả Rập Saudi với những vali tiền rupi. Họ đưa những học sinh giỏi nhất về nước cùng với họ. Khi trở lại Baltistan, chàng trai này phải lấy bốn vợ.”
Hai mươi phút sau, trên đường đi, Mortenson thấy hình ảnh giống hệt của giáo đường mới ở Yugo tọa lạc ở ngôi làng nghèo khổ Xurd.
“Wahhabi?” Mortenson hỏi với cảm giác khiếp sợ tăng dần.
“Phải, Greg.” Apo nói, thừa nhận sự dày đặc rõ ràng qua một miệng thuốc sợi Copenhagen. “Chúng ở khắp mọi nơi.”
“Tôi được biết giáo phái Wahhabi Ả Rập xây dựng những giáo đường dọc theo biên giới Afghanistan đã từ nhiều năm.” Mortenson nói. “Nhưng mùa xuân năm đó, mùa xuân năm 2001, tôi ngạc nhiên bởi tất cả những kiến trúc mới của họ ngay tại đây, trái tim của người Shiite Baltistan. Lần đầu tiên tôi hiểu được quy mô của điều mà họ định làm và nó làm cho tôi thấy sợ hãi.”
Wahhabi là một nhánh Hồi giáo Sunni chính thống, bảo thủ và là tôn giáo nhà nước chính thức của những người thống trị Ả Rập Saudi. Nhiều đạo hữu Ả Rập của giáo phái này thấy tên gọi Wahhabi có vẻ hiếu chiến và họ thích tự gọi mình là al-Muwahhiddun, “giáo phái độc thần”. Pakistan và những nước nghèo khác bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi việc cải giáo theo Wahhabi, mặc dù cái tên có gây trở ngại.
Wahhabi xuất phát từ thuật ngữ Al-Wahhab, trong tiếng Ả Rập có nghĩa bao quát là “người cho rộng lượng”, một trong nhiều biệt danh của Thánh Allah, và chính việc cho đi một cách rộng lượng - nguồn cung ứng tiền mặt gần như vô hạn mà các hoạt động Wahhabi tuồn vào Pakistan, cả trong những vali và qua hệ thống chuyển tiền hawala không thể lần ra được - đã tạo nên hình ảnh của họ trong dân chúng Pakistan. Số tiền dồi dào từ dầu hỏa đổ vào từ vùng Vịnh nhắm đến vườn ươm chủ nghĩa tôn giáo cực đoan nguy hại nhất ở Pakistan - Wahhabi madrassa.
Không thể nêu ra số lượng chính xác của một nỗ lực bí mật như vậy, nhưng một trong những báo cáo hiếm hoi xuất hiện trong sự kiểm duyệt gắt gao của báo chí Ả Rập đã gợi ra sự thay đổi lớn lao từ lợi nhuận dầu hỏa được đầu tư khôn khéo là ở những học sinh nghèo khổ nhất ở Pakistan.
Vào tháng 12 năm 2000, ấn phẩm Ả Rập Ain-Al-Yaqeen tường thuật rằng một trong bốn tổ chức cải đạo Wahhabi, Quỹ Haramain, đã xây dựng 1.100 giáo đường, trường học, trung tâm Hồi giáo ở Pakistan và các nước Hồi giáo khác, và đã sử dụng ba nghìn người cải đạo có trả lương trong năm vừa qua.
Nhóm tích cực nhất trong bốn nhóm, theo báo cáo của Ain-Al-Yaqeen, Tổ chức Cứu tế Hồi giáo Quốc tế, mà về sau Ủy ban 11/9 cáo buộc là trực tiếp hỗ trợ cho Taliban và Al Qaeda, hoàn thành việc xây dựng ba nghìn tám trăm giáo đường, chi bốn mươi lăm triệu đôla cho “giáo dục Hồi giáo” và đã sử dụng sáu nghìn giáo viên, nhiều người trong số đó ở Pakistan, trong suốt thời kì đó.
“Năm 2001, những hoạt động của CAI rải rác khắp miền bắcPakistan, từ những trường học mà chúng tôi xây dựng dọc theo Đường Phân Giới đến phía đông, cho đến nhiều sáng kiến khác mà chúng tôi đang thực hiện dọc phía tây biên giới Afghanistan. Nhưng nguồn lực của chúng tôi chỉ là những hạt đậu so với Wahhabi. Mỗi khi tôi đến để kiểm tra một trong các dự án của chúng tôi, thì cứ như là mười Wahhabi madrassa đã mọc lên gần đó qua đêm.”
Hệ thống giáo dục hoạt động kém của Pakistan đã làm cho sự tiến triển của học thuyết Wahhabi chỉ là một vấn đề kinh tế. Một tỉ lệ phần trăm rất nhỏ trẻ em nhà giàu của đất nước theo học tại những trường tư ưu tú, di sản của hệ thống thuộc địa Anh. Nhưng như Mortenson được biết, từng mảng lớn của đất nước này chỉ được phục vụ bởi sự phấn đấu của những trường công lập không được tài trợ đầy đủ của Pakistan. Hệ thống madrassa nhắm đến những học sinh nghèo không học trường công. Bằng cách cung cấp miễn phí phòng học, bảng, và xây trường trong những khu vực chưa có gì, madrassa cung cấp cho hàng triệu phụ huynh Pakistan cơ hội duy nhất để giáo dục cho con cái họ. “Tôi không muốn nói rằng tất cả các wahhabi đều xấu xa.” Mortenson nói. “Nhiều trường học và nhà thờ của họ làm tốt việc giúp đỡ người nghèo Pakistan, nhưng một ít trong số đó dường như chỉ tồn tại để dạy chiến binh jihad.”
Năm 2001, một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới ước tính rằng có ít nhất hai mươi nghìn madrassa đang giảng dạy cho hai triệu học sinh Pakistan theo một chương trình học trên cơ sở Hồi giáo. Nhà báo gốc Lahore, Ahmed Rashid, có lẽ là người có thẩm quyền nhất thế giới về mối liên hệ giữa giáo dục madrassa và sự trỗi dậy của Hồi giáo cực đoan, đã ước tính là có hơn tám mươi nghìn học sinh trẻ của cácmadrassa trở thành những người được Taliban tuyển mộ. Không phải madrassa nào cũng là lò ươm chủ nghĩa cực đoan, nhưng Ngân hàng Thế giới đã kết luận rằng 15% đến 20% học sinh madrassa nhận được việc huấn luyện quân sự cùng với một chương trình học nhấn mạnh đến jihad và lòng thù ghét phương Tây thay cho những môn như toán, khoa học và văn chương.
Rashid đã kể lại kinh nghiệm giữa những Wahhabi madrassa ở Peshawar trong quyển sách bán chạy nhất của mình - Taliban. Học sinh bỏ ra nhiều ngày để nghiên cứu “kinh Koran, những lời nói của tiên tri Mohammed và những điều cơ bản về luật Hồi giáo được diễn giải bởi những giáo viên ít học.” Ông viết, “Cả thầy giáo lẫn học sinh, không ai có bất cứ nền tảng cơ bản chính quy nào về toán, khoa học, lịch sử hay địa lí.”
Các học sinh madrassa là “những đứa trẻ lang thang và hiếu động, không việc làm và túng quẫn về kinh tế với ít hiểu biết về bản thân.” Rashid kết luận. “Chúng ngưỡng mộ chiến tranh vì đó là nghề nghiệp duy nhất chúng có thể thích nghi. Niềm tin đơn giản của chúng về một đấng cứu rỗi, một thứ Hồi giáo khắt khe được lặp đi lặp lại bởi các giáo sĩ làng là chỗ dựa duy nhất mà chúng có thể bám vào và tạo cho đời sống của mình một vài ý nghĩa.”
“Công việc của Mortenson là xây dựng những ngôi trường cung cấp cho hàng nghìn học sinh thứ mà họ cần nhất - một nền giáo dục cân bằng và những công cụ để tự kéo họ ra khỏi nghèo đói. Nhưng chúng ta cần nhiều trường học như vậy hơn nữa. Những ngôi trường của ông chỉ là một giọt nước trong xô nước khi bạn nhìn vào quy mô của vấn đề ở Pakistan. Về cơ bản, nhà nước đã bỏ quên các học sinh của mình trên quy mô lớn và khiến cho những người cực đoan hơn đang điều hành các madrassa tuyển mộ bọn trẻ dễ dàng hơn nhiều.”
Nổi tiếng nhất trong các madrassa là Darul Uloom Haqqania, ở thành phố Attock gần Peshawar, với ba nghìn học sinh, có biệt danh là “Trường Đại học Jihad” vì những học sinh tốt nghiệp trường này là những lãnh đạo tối cao của Taliban, giáo sĩ một mắt bí mật Mullah Omar, và nhiều nhà lãnh đạo hàng đầu của ông ta.
“Suy nghĩ về chiến lược của wahhabi làm đầu óc tôi quay cuồng.” Mortenson nói. “Đó không chỉ là một vài lãnh tụ Hồi giáo Ả Rập rời vùng vịnh trên những chuyến bay với những bao tiền. Họ đem về Ả Rập Saudi và Kuwait những học sinh madrassa xuất sắc nhất để truyền bá học thuyết trong hàng chục năm, rồi khuyến khích những người này lấy bốn vợ khi họ trở về quê hương và sinh con đẻ cái như thỏ.
“Apo ví các Wahhabi madrassa như những tổ ong là rất chính xác. Chúng làm dấy lên từ thế hệ này sang thế hệ khác những học sinh bị tẩy não và suy nghĩ đến hai mươi, bốn mươi, hay thậm chí sáu mươi năm phía trước đến một lúc khi những đạo quân chủ nghĩa cực đoan của họ sẽ có đủ số lượng để tràn ngập Pakistan và phần còn lại của thế giới Hồi giáo.”
Đầu tháng 9 năm 2001, ngọn tháp đỏ ảm đạm của một phức hợp giáo đường Wahhabi và madrassa mới hoàn thành đã nhô lên đằng sau những bức tường đá cao ở trung tâm Skardu, tự nó giống như một dấu chấm than làm tăng thêm sự lo ngại mà Mortenson đã cảm thấy trong suốt mùa hè.
Ngày 9 tháng 9, Mortenson ngồi ở băng sau chiếc Land Cruiser màu xanh lá của mình, hướng về thung lũng Charpurson, mỏm cực bắc của Pakistan. Từ ghế ngồi phía trước, George McCown ngắm nhìn thung lũng Hunza uy nghiêm. “Chúng tôi vượt qua đèo Khunjerab từ Trung Quốc. Và có lẽ đó là một trong những chuyến du ngoạn đẹp nhất thế giới, với những đàn lạc đà hoang lang thang trong khung cảnh hoang dã nguyên sơ trước khi bạn đổ xuống giữa những đỉnh cao khác thường của Pakistan.”
Họ lái xe hướng về Zuudkhan, để khánh thành ba dự án do CAI tài trợ vừa mới được hoàn thành - một dự án nước, một trạm thủy điện nhỏ và một trạm y tế - ở quê hương người cận vệ Faisal Baig của Mortenson. McCown, đã đóng góp với tư cách cá nhân tám nghìn đôla cho những dự án này, đi cùng với Mortenson để xem những thay đổi mà số tiền của ông đã tạo ra. Đằng sau họ là con trai Dan và con dâu Susan của McCown trên chiếc xe jeep thứ hai.
Họ dừng lại nghỉ đêm ở Sost, một địa điểm mới được phục hồi trên con đường tơ lụa như một trạm dừng cho những chiếc Bedfordmiệt mài trên đường đến Trung Quốc. Mortenson mở chiếc điện thoại vệ tinh mới mà anh đã mua cho chuyến đi này và gọi cho bạn mình là trung tướng Bashir ở Islamabad để khẳng định rằng sẽ có một chiếc trực thăng đón họ trong hai ngày nữa ở Zuudkhan.
Đã có nhiều thay đổi trong những năm vừa qua của Mortenson ở Pakistan. Anh bây giờ mặc chiếc áo khoác kí giả bên ngoài chiếc áo shalwa kamiz đơn giản, với những cái túi đủ lớn để chứa những thứ linh tinh lúc này quấn quanh người vị giám đốc điên rồ của Viện Trung Á. Có những cái túi khác nhau chứa đôla chờ đổi, chứa những xấp tiền rupi lẻ dành cho những giao dịch hằng ngày, những cái túi mà anh có thể nhét những bức thư được chuyển cho anh để xin những dự án mới, và những cái túi cho những biên lai của các dự án đang thực hiện, những hóa đơn phải được chuyển cho các kế toán viên Mỹ khó tính. Trong những cái túi lớn của chiếc áo khoác có cả máy ảnh cơ và máy ảnh kĩ thuật số, những phương tiện để ghi lại công việc của anh cho những người hiến tặng mà anh phải tranh thủ khi trở về nhà.
Pakistan cũng đã thay đổi. Cú đấm vào niềm kiêu hãnh quốc gia do thất bại thảm hại của các lực lượng Pakistan trong vụ Xung đột Kargil đã đẩy Thủ tướng dân cử Nawar Sharif khỏi chức vụ. Và trong cuộc đảo chính quân sự không đổ máu nhằm trục xuất ông, Tướng Pervez Musharraf đã được đặt vào vị trí của mình. Và Musharraf đã cam kết đẩy lùi các lực lượng Hồi giáo cực đoan mà ông quy trách nhiệm đưa đến sự đi xuống của đất nước gần đây.
Mortenson chưa hiểu các động cơ của Musharraf. Nhưng anh biết ơn sự hỗ trợ mà chính phủ quân sự mới đã trao cho CAI, “Musharraf lập tức nhận được sự kính trọng bằng cách chống tham nhũng.” anh giải thích. “Lần đầu tiên kể từ khi đến Pakistan, tôi bắt đầu gặp những kiểm toán viên quân đội trong những ngôi làng miền núi xa xôi; họ đến để đảm bảo các trường học và trạm y tế mà chính phủ đã chi tiền thực sự tồn tại. Và lần đầu tiên, dân làng ở Braldu nói với tôi về một vài khoản tiền đã đến với họ qua suốt chặng đường từ Islamabad. Điều này nói với tôi nhiều hơn là sự lãng quên và những lời hùng biện trống rỗng của chính phủ Shariff và Bhutto.”
Vì các hoạt động của Mortenson trải rộng khắp miền bắc Pakistan, nhiều phi công quân sự đã chào mời những dịch vụ của họ cho anh chàng người Mỹ gan lì mà họ ngưỡng mộ, chở anh hàng giờ từ Skardu đến những ngôi làng mà anh phải mất nhiều giờ đi đến nơi bằng chiếc Land Cruiser của mình.
Trung tướng Bashir Baz, một người thân cận của Musharraf, là người đi đầu trong việc dùng trực thăng thả người và tiếp liệu đến những chốt chiến đấu trên đỉnh sông băng Siachen, chiến trường cao nhất thế giới. Sau khi góp phần đẩy lùi quân Ấn Độ, ông đã rút lui khỏi nhiệm vụ tích cực để điều hành một dịch vụ hàng không cho thuê được quân đội hỗ trợ mang tên Hàng không Askari. Khi có thời gian và máy bay rảnh, ông và những người tình nguyện đã chở Mortenson đến nhiều góc xa xôi của đất nước mình. “Trong đời, tôi đã gặp nhiều người nhưng không một ai giống Greg Mortenson.” Bashir nói. “Xét đến việc anh ta đã vất vả như thế nào cho trẻ em ở đất nước tôi, thỉnh thoảng tặng anh một chuyến bay là điều tối thiểu tôi có thể làm.”
Mortenson quay số và xoay ăng-ten điện thoại vệ tinh về hướng nam cho đến khi nghe giọng nói có học thức của Bashir được chuyển đến qua bầu khí quyển. Tin tức từ đất nước có những đỉnh núi mà anh có thể nhìn thấy qua những sườn núi phía tây gây sửng sốt. “Hãy nói lại!” Mortenson la lên. “Massoud đã chết!”
Bashir vừa nhận được một báo cáo chưa được xác nhận từ những nguồn tin tình báo Pakistan cho biết Ahmed Shah Massoud đã bị giết chết bởi những kẻ ám sát Al Qaeda giả dạng làm phóng viên. Bashir nói thêm, “Việc đón bằng trực thăng vẫn nằm trong chương trình.”
“Nếu tin này là đúng,” Mortenson nghĩ, “Afghanistan sẽ bùng nổ.”
Thông tin đó tỏ ra là chính xác. Massoud, lãnh đạo có uy tín của Liên minh Phương Bắc, nhóm cựu mujahadeen khố rách áo ôm có kĩ năng quân sự khiến cho Taliban không chiếm được vùng cực bắc Afghanistan đã bị giết chết vào ngày 9 tháng 9 bởi hai người Algerie do Al Qaeda huấn luyện, giả dạng là những nhà làm phim tài liệu người Bỉ gốc Marôc. Sau khi lần theo những con số xêri, tình báo Pháp về sau tiết lộ rằng chúng đã trộm máy quay video của phóng viên ảnh Jean-Pierre Vincendet vào mùa đông năm trước, trong khi anh này đang quay một đoạn quảng cáo về khu vực trưng bày hàng Giáng sinh ở Grenoble.
Những kẻ ám sát tự sát đã nhồi thuốc nổ vào máy ghi hình và cho nổ trong một cuộc phỏng vấn Massoud ở căn cứ của ông ta tại Khvajeh Ba Odin, cách Sost, nơi Mortenson vừa nghỉ đêm, một giờ bay về phía nam. Massoud chết mười lăm phút sau đó trong chiếc Land Cruiser của mình, khi người thân cận vội vã đưa ông đến chiếc trực thăng đã chuẩn bị sẵn để đưa ông đến bệnh việnDushanbe, Tajikistan. Nhưng họ đã bưng bít thông tin với thế giới, càng lâu càng tốt, vì lo sợ cái chết của ông sẽ cổ vũ cho Taliban mở một đợt tấn công mới vào vùng đất tự do cuối cùng của đất nước.
Ahmed Shah Massoud được biết đến như là “Con Sư tử của Panjshir”, vì cách thức tàn bạo mà ông đã bảo vệ tổ quốc mình khỏi những kẻ xâm lược Xô Viết, chín lần đẩy lui những lực lượng vượt trội khỏi thung lũng Panjshir quê hương ông với những chiến thuật du kích xuất sắc. Được những người ủng hộ yêu thương, và bị căm thù bởi những người đã sống qua cuộc bao vây Kabul tàn bạo của ông, ông là Che Guevera của đất nước mình. Dù vậy, bên dưới chiếc mũ len màu nâu và bộ râu lôi thôi, khuôn mặt đẹp trai mệt mỏi của ông rất giống với Bob Marley.
Và đối với Osama Bin Laden và những sứ giả Khải huyền của hắn, mười chín người, chủ yếu là người Ả Rập sắp lên máy bay của những hãng hàng không Mỹ mang theo máy cắt hộp, cái chết của Massoud có nghĩa là một trong những lãnh tụ có năng lực nhất của các tư lệnh liên minh miền bắc Afghanistan, mà viện trợ quân sự của Mỹ chắc chắn được rót vào đó, đã bị lật đổ, như những tòa tháp sắp sụp đổ cách đó nửa vòng trái đất.
Sáng hôm sau, ngày 10 tháng 9, đoàn xe của Mortenson leo lên thung lũng Charpurson trong không khí vùng núi cao, làm cho những rặng núi màu đỏ gỉ sắt của vùng Hindu Kush Afghanistan trở nên rõ nét. Chỉ di chuyển với vận tốc hai mươi kilômét một giờ, họ dỗ dành hai chiếc xe jeep đi trên con đường đất thô giữa những băng hà rải rác treo như những thức ăn nhai dở bên sườn của những đỉnh núi sáu nghìn mét lởm chởm như răng cá mập.
Zuudkhan, khu định cư cuối cùng ở Pakistan hiện ra ở cuối thung lũng. Những ngôi nhà bằng gạch bùn màu nâu xám tương đồng với đáy thung lũng bụi bặm khiến họ không nhận ra cho đến khi đã ở trong làng. Trên sân bong polo của làng, Mortenson thấy chàng vệ sĩ Faisal Baig của mình đang hãnh diện đứng giữa một đám dân làng, chờ đợi để chào đón những vị khách. Ở đây tại làng quê, anh ta mặc y phục truyền thống của bộ tộc Wakhi. Một chiếc áo khoác len thô màu nâu. Một cái nón phồng bằng len trắng trên đầu và đôi ủng cưỡi ngựa cao đến gối. Vượt lên cao trên đám đông tụ tập để chào đón những người Mỹ, anh ta đứng thẳng sau cặp mắt kính phi công màu đen mà McCown đã tặng như một món quà.
George McCown là một người to lớn. Nhưng Baig đã nhấc bổng ông lên khỏi mặt đất một cách dễ dàng và siết chặt ông bằng một cái ôm. “Faisal là một viên đá quý thực sự.” McCown nói. “Chúng tôi vẫn giữ liên lạc kể từ chuyến đi đến K2 của tôi, khi anh ta đưa tôi, với cái đầu gối đau của mình, xuống khỏi Baltoro và thực sự đã cứu mạng con gái tôi, Amy, mà anh ta đã cõng phần lớn quãng đường xuống núi sau khi con bé ốm. Ở đây, tại làng của mình, anh ta hãnh diện giới thiệu chúng tôi với mọi người. Anh ta đã tổ chức một buổi tiếp đón hoàng gia.”
Một toán nhạc công thổi kèn và đánh trống đi kèm theo những vị khách dọc một hàng dài ba trăm người dân Zuudkhan. Mortenson, đã đến làng này nhiều lần để thúc đẩy những dự án, và trong quá trình đó đã chia sẻ hàng chục chén trà, được hoan nghênh như người trong gia đình. Những người đàn ông Zuudkhan ôm anh, có phần ít làm đau xương hơn là Faisal Baig. Những phụ nữ, trong bộ shalwar kamiz và những chiếc khăn quàng màu sắc rực rỡ thường thấy ở những người Wakhi, thể hiện lời chào dast ba, trìu mến đặt lòng bàn tay của họ lên má Mortenson và hôn vào lưng bàn tay đúng theo phong tục địa phương.
Trong khi Baig dẫn đường, Mortenson và McCown kiểm tra những đường ống mới lắp đặt để đưa nước từ một dòng suối trên núi xuống một máng nước dốc đến phía bắc của thung lũng. Và long trọng đóng cầu dao máy phát điện nhỏ chạy bằng nước, đủ để phá vỡ sự đơn điệu của bóng tối vài giờ mỗi đêm cho vài chục gia đình ở Zuudkhan, nơi đã có những bộ đèn mới được lắp đặt, đung đưa trên trần nhà.
Mortenson nhìn trạm xá mới, nơi cô y tá chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân làng Zuudkhan vừa trở về sau khóa đào tạo sáu tháng do CAI sắp xếp ở Trung Tâm y tế Gulmit, cách làng 150 cây số về miền xuôi. Aziza Hussai, hai mươi tám tuổi, rạng rỡ khi trưng ra những trang thiết bị y tế trong căn phòng do ngân quỹ của CAI tài trợ bổ sung vào nhà cô. Đặt thăng bằng đứa con trai vào lòng trong khi đứa con gái năm tuổi bám vào cổ, cô hãnh diện chỉ những ngăn kệ chứa thuốc kháng sinh, xirô ho và Oresol mà CAI đã mua tặng.
Với cơ sở y tế gần nhất ở cách hai ngày đường mà xe jeep thường không vượt qua được, ốm đau ở Zuudkhan có thể nhanh chóng chuyển thành cơn bệnh nặng. Trong năm trước, khi Aziza chịu trách nhiệm chăm sóc sức khỏe cho làng mình, ba phụ nữ đã chết khi sinh con. “Còn có nhiều người chết vì tiêu chảy.” Aziza nói. “Sau khi được đào tạo và được bác sĩ Greg cung cấp thuốc, chúng tôi có thể kiểm soát được những chuyện như vậy.”
“Sau năm năm, với nước sạch từ những đường ống mới, và việc dạy cho người dân cách tắm rửa sạch sẽ cho con cái họ, cách sử dụng thức ăn sạch, không còn một ai chết vì những vấn đề đó. Điều quan tâm lớn nhất của tôi là tiếp tục phát triển bản thân trong lĩnh vực này.” Aziza nói “Và chuyển giao việc đào tạo của tôi cho những phụ nữ khác. Ngày nay, chúng tôi đã có được tiến bộ như thế này, không một ai trong vùng tin rằng phụ nữ không cần được học hành.”
“Tiền của bạn mua được nhiều thứ qua đôi tay của Greg Mortenson.” McCown nói. “Tôi đến từ một thế giới, nơi các tập đoàn đã ném hàng triệu đôla vào những vấn đề và thường thì không có gì xảy ra cả. Với cái giá của một chiếc xe hơi rẻ tiền, anh ta đã có thể làm thay đổi cuộc sống của tất cả những người dân quanh đây.”