← Quay lại trang sách

Chương 19 (tt)

Ngày hôm sau, ngày 11 tháng 9 năm 2001, cả làng tụ tập tại một sân khấu được dựng bên rìa sân polo. Dưới một biểu ngữ ghi “Chào mừng những vị khách danh dự” Mortenson và McCown ngồi trong khi những bô lão để ria dài, gọi là puhp, mặc áo len dài màu trắng thêu những bông hoa màu hồng, múa điệu Wakhi để chào mừng. Mortenson, cười tươi đứng lên cùng tham gia và nhảy múa với vẻ duyên dáng đáng ngạc nhiên bất chấp cơ thể đồ sộ của mình, anh được cả làng hò reo tán thưởng.

Zuudkhan, dưới sự lãnh đạo cấp tiến của Faisal Baig và tám bô lão khác, đã tổ chức tanzeem, nghĩa là hội đồng làng, thành lập trường học của chính họ từ một thập niên trước. Và chiều hôm đó, khi những phát biểu không dứt của các vị khách dự lễ khánh thành đã ngớt đi vì cái nóng của buổi chiều, những học sinh giỏi nhất Zuudkhan đã khoe trường mình bằng tiếng Anh. “Cảm ơn các ông đã dành thời gian quý báu của mình đến vùng xa xôi ở miền bắcPakistan này.” Một thiếu niên ngượng ngùng phát âm vào chiếc micro được nối vào bình ắc quy máy kéo.

Một người bạn đẹp trai cùng lớp cố cướp lời cậu bé bằng những nhận xét đã chuẩn bị trước. “Đây là một vùng đất biệt lập và bị tách rời.” em nói, chộp lấy micro với điệu bộ của một ngôi sao nhạc pop. “Chúng em đơn độc ở đây trong vùng Zuudkhan, nhưng bác sĩ Greg và ông George muốn cải thiện làng em. Vì lợi ích của người nghèo ở thế giới này như nhân dân Zuudkhan, chúng em muốn nói lời cảm ơn với những ân nhân của mình. Chúng em rất, rất biết ơn.”

Những nghi lễ kết thúc bằng một trận bóng polo, được tổ chức theo hình thức, để giải trí cho những chức sắc đến thăm làng. Những chú ngựa non miền núi đã được tập hợp lại từ tám làng bên dưới thung lũng cách biệt này, và người Wakhi đã chơi một thứ polo cũng thô thiển như cuộc sống của họ. Khi những kị sĩ không yên cương phi nước đại qua lại trên khoảnh đất trống, đuổi theo cái sọ dê được sử dụng như một quả bóng, họ vụt mạnh vào nhau bằng những cái chày và đập ngựa vào nhau như những người lái xe trong cuộc đua xe phá hủy. Dân làng reo hò và hoan hô cuồng nhiệt mỗi khi các cầu thủ ầm ầm phóng ngựa qua. Chỉ đến khi tia sáng cuối cùng rời khỏi đỉnh núi đổ vào Afghanistan, các kị sĩ mới xuống ngựa và đám đông giải tán.

Faisal Baig, dung nạp những tập quán của các nền văn hóa khác, đã kiếm được một chai vodka Trung Quốc để mời những vị khách trú ngụ lại trong căn nhà giống như một lô cốt của mình, nhưng anh ta và Mortenson không uống rượu, câu chuyện với những bô lão trong làng đến thăm trước giờ đi ngủ xoay quanh vụ ám sát Massoud và chuyện đó có ý nghĩa như thế nào đối với người dân của Baig. Nếu phần còn lại của Afghanistan - cách đèo Irshah chỉ ba mươi kilômét - rơi vào tay Taliban thì cuộc sống của họ sẽ thay đổi. Biên giới sẽ bị đóng kín, những con đường buôn bán truyền thống sẽ bị phong tỏa, và họ sẽ bị tách rời khỏi phần còn lại của bộ tộc mình, đang qua lại tự do ở những đèo cao và thung lũng của cả hai nước.

Mùa thu năm trước, khi đến Zuudkhan để giao ống cho một dự án cấp nước, Mortenson đã cảm nhận được sự gần kề của Afghanistan. Cùng với Baig, Mortenson đứng trên đồng cỏ cao bên trên Zuudkhan, nhìn theo một đám mây bụi đang đi xuống từ đèo Irshad, những người đàn ông cưỡi ngựa đã nhận ra Mortenson và phi thẳng đến chỗ anh như một băng cướp hung bạo. Có hàng chục người đang tiến nhanh đến, với những dây đạn căng phồng quanh ngực, râu ria bờm xờm và những đôi ủng cưỡi ngựa cao quá đầu gối.

“Họ nhảy xuống ngựa và đi ngay đến chỗ tôi.” Mortenson nói. “Họ là những người có vẻ hoang dã nhất mà tôi từng thấy. Trong đầu tôi thoáng nghĩ đến vụ bắt giữ ở Waziristan và tôi thầm nói, ‘Ôi chao! Chúng ta lại gặp nhau.’”

Người dẫn đầu, một người đàn ông khắc khổ đeo khẩu súng trường trên vai, bước về phía Mortenson, và Baig bước ra cản đường, muốn hạ gục ông ta, nhưng chỉ giây lát sau, hai người đàn ông ôm nhau và cười nói phấn khích.

“Bạn tôi.” Baig nói với Mortenson. “Hắn đã tìm ông nhiều lần.”

Mortenson được biết những người đàn ông này là dân du mục Kirghiz đến từ Wakhan, mỏm đất hẹp nhô ra ở đông bắc Afghanistan hẻo lánh, đặt cánh tay huynh đệ của mình lên trên thung lũng Charpurson, nơi mà nhiều gia đình Kirghiz cũng rong ruổi, phiêu bạt trong hành lang hoang dã này, giữa Pakistan và Tajikistan, và bị bao vây vào trong góc này của đất nước họ bởi Taliban, họ không hề nhận được viện trợ nước ngoài cũng như sự giúp đỡ từ chính quyền. Họ đã cưỡi ngựa sáu ngày đến tìm Mortenson sau khi nghe tin anh đang ở Charpurson.

Vị trưởng làng bước lại gần Mortenson. “Đối với tôi, cuộc sống vất vả cũng không có vấn đề gì.” ông ta nói thông qua Baig. “Nhưng đối với trẻ em thì không tốt. Chúng tôi không có nhiều thức ăn, nhà cửa, không có trường học. Chúng tôi biết bác sĩ Greg đã xây trường học ở Pakistan, nên không biết liệu anh ta có thể đến xây trường cho chúng tôi không? Chúng tôi có đất, đá, con người... mọi thứ. Hãy đến ngay bây giờ và ở lại với chúng tôi trong mùa đông để chúng ta có thể bàn bạc kĩ lưỡng và xây dựng một ngôi trường.”

Mortenson nghĩ về những người láng giềng của người đàn ông này ở phía tây, mười nghìn người tị nạn đổ vào những hòn đảo trên sông Amu Darya mà anh đã quên đi. Dù vậy, Afghanistan ở trong tình trạng chiến tranh thì cũng khó là nơi để phát động một sáng kiến phát triển mới, anh tự hứa với bản thân rằng sẽ tìm cách giúp đỡ những người Afghanistan này.

Mortenson giải thích một cách quanh co thông qua Baig rằng vợ anh đang trông đợi anh trở về trong vài ngày nữa, và những dự án của CAI cần phải được phê chuẩn bởi một ban giám đốc. Nhưng anh đã đặt bàn tay mình lên vai người đàn ông, bóp chiếc áo khoác len đen vì bụi bẩn của ông. “Hãy nói với ông ta lúc này tôi cần về nhà. Hãy nói rằng làm việc ở Afghanistan là rất khó khăn đối với tôi.” anh nói với Baig. “Nhưng tôi hứa sẽ đến thăm gia đình ông ta ngay khi có thể. Khi đó, chúng ta sẽ bàn về việc xây dựng một vài ngôi trường nếu có thể được.”

Người đàn ông Kirghiz chăm chú lắng nghe Baig, nhíu mày tập trung trước khi nét mặt phong sương của ông vỡ ra thành một nụ cười. Ông đặt bàn tay cơ bắp của mình lên vai Mortenson, công nhận cho một lời hứa, trước khi lên ngựa và dẫn đầu nhóm người của mình trên hành trình dài trở về quê nhà qua Hindu Kush, để báo cáo cho chỉ huy của mình, Abdul Rashid Khan.

Năm sau, Mortenson ở nhà Baig nằm thoải mái trên charpoy mà chủ nhà đã dựng cho những vị khách của mình, dẫu cho Baig và vợ mình phải nằm trên sàn. Dan và Susan ngủ say trong khi McCown đang ngáy trên chiếc giường bên cửa sổ. Mortenson, chưa tỉnh, đã quên cuộc nói chuyện của các bô lão trong làng, anh mơ màng nghĩ về lời hứa của mình với những kị sĩ Kirghiz và tự hỏi vụ sát hại Massoud có làm cho lời hứa đó trở nên không thể thực hiện được hay không.

Baig đã thổi tắt ngọn đèn sau lúc nửa đêm, nhấn mạnh rằng trong những giờ khuya khoắt, đối diện với những vấn đề không thể nhận thức được của người đàn ông, thì chỉ có một cách hành động đúng: Cầu xin sự bảo vệ của Allah nhân từ, rồi ngủ.

Trong bóng tối, khi Mortenson chìm vào sự kết thúc của một ngày dài, âm thanh cuối cùng mà anh nghe là từ Baig, thì thầm lặng lẽ, không chú ý đến những vị khách, khẩn thiết cầu nguyện Allah cho hòa bình.

Lúc 4 giờ 30 sáng, Mortenson bị lay dậy. Faisal Baig, áp chiếc máy thu thanh sóng ngắn rẻ tiền bằng nhựa của Nga vào tai. Và trong ánh sáng xanh như ở dưới nước hắt ra, qua chiếc máy thu thanh, Mortenson nhìn thấy trên khuôn mặt đẹp trai của chàng vệ sĩ một nét mặt mà anh chưa bao giờ thấy - sự sợ hãi.

“Sahib bác sĩ, sahib bác sĩ! Có chuyện lớn!” Baig nói. “Dậy! Dậy!”

Việc huấn luyện của quân đội mà Mortenson chưa bao giờ quên hẳn đã khiến anh đưa chân xuống sàn mặc dù anh chỉ mới chợp mắt được hai giờ. “As-Salaam Alaaikum, Faisal” Mortenson nói, cố xua cơn buồn ngủ khỏi mắt mình. “Baaf Ateya, anh sao vậy?”

Baig, thường lịch sự, cắn chặt hàm không trả lời. “Uzum Mofsar.” anh ta nói sau khi nhìn Mortenson không chớp mắt một lúc lâu. “Tôi rất tiếc.”

“Vì sao?” Mortenson hỏi. Anh thấy người vệ sĩ, mà cơ thể đồ sộ luôn đủ để bảo vệ anh khỏi bất cứ nguy hiểm nào có thể tưởng tượng được, đang cảnh giác cầm khẩu AK-47 trên tay.

“Một ngôi làng gọi là New York đã bị đánh bom.”

Mortenson kéo tấm chăn lông bò Tây Tạng lên vai, xỏ đôi sandal lạnh cóng và bước ra ngoài. Quanh nhà, trong cái lạnh gay gắt trước khi trời sáng, anh thấy Baig đã bố trí một người canh gác quanh những vị khách Mỹ. Em trai Faisal, Alam Jan, một người khuân vác vùng cao tóc vàng, mắt xanh đầy quả quyết đang cầm khẩu tiểu liên Kalashnikov, che chắn cửa sổ duy nhất của căn nhà. Haidar, giáo sĩ làng, đang đứng trong bóng tối nhìn về phíaAfghanistan. Còn Sarfraz, một cựu sĩ quan Pakistan cao lêu nghêu, theo dõi bất cứ xe nào tiến lại gần trên con đường chính trong khi rà tới rà lui mặt số trên chiếc máy thu thanh sóng ngắn của mình.

Mortenson biết Sarfraz đã nghe một chương trình phát sóng bằng tiếng Uighur, một trong nửa tá ngôn ngữ mà anh ta nói, trên kênh của Trung Quốc nói rằng hai tòa tháp lớn đã sụp đổ. Anh ta không biết điều đó có ý nghĩa gì, nhưng biết rằng những kẻ khủng bố đã giết chết nhiều, rất nhiều người Mỹ. Lúc này anh ta đang cố tìm thêm tin tức nhưng dù có dò thế nào, chiếc máy thu thanh cũng đủ bắt được điệu nhạc Uighur u buồn từ một trạm phát thanh ở Kashgar, bên kia biên giới Trung Quốc.

Motenson lên tiếng bảo đưa chiếc điện thoại vệ tinh mà anh đã mua dùng cho chuyến đi này, và Safraz, người giỏi kĩ thuật nhất trong bọn họ, cưỡi ngựa về nhà lấy chiếc điện thoại mà anh đã mang về để học cách sử dụng.

Faisal Baig không cần thêm thông tin nào nữa. Với khẩu AK-47 trong một tay và tay kia nắm lại thành nắm đấm đặt bên hông, anh nhìn chăm chú vào tia sáng đỏ như máu đầu tiên quét trên chóp nhọn của các đỉnh núi Afghanistan. Trong nhiều năm, anh đã nhìn thấy nó đến, giông bão đang hình thành. Phải mất nhiều tháng và hàng triệu đôla rót vào những cánh tay vung vẩy ngoằn ngoèo của bộ máy tình báo Mỹ để khám phá một cách chắc chắn điều mà người đàn ông mù chữ sống ở ngôi làng cuối cùng phía cuối con đường đất, không có kết nối internet hay thậm chí là điện thoại, nhận biết được bằng trực giác.

“Vấn đề của anh ở làng New York đến từ đó.” anh ta nói, giọng càu nhàu hướng về phía biên giới. “Từ shetan Al Qaeda này.” anh ta nói, nhổ nước bọt về hướng Afghanistan, Osama”.

Chiếc trực thăng khổng lồ MI-17 do Nga sản xuất đã đến lúc 8 giờ sáng đúng như trung tướng Bashir đã hứa với Mortenson. Viên sĩ quan hàng đầu của Bashir, đại tá Ilya Mirza, nhảy xuống trước khi cánh quạt dừng quay và vội vàng chào những người Mỹ. “Chúng tôi đến làm nhiệm vụ thưa các ngài, bác sĩ Greg, ông George.” ông nói, khi toán biệt kích của quân đội nhảy ra khỏi chiếc MI-17 tạo thành một vòng bao quanh những người Mỹ.

Ilya cao và nhanh nhẹn theo phong cách mà Hollywood đã tưởng tượng ra cho những người hùng của mình. Mái tóc đen của ông lốm đốm bạc ở ngay hai bên thái dương trên khuôn mặt như tạc tượng. Ngoài ra, ông trông rất giống thời còn trai trẻ, khi phục vụ với tư cách là một phi công chiến đấu giỏi nhất của đất nước mình. Ilya cũng là người Wazir vùng Bannu, khu định cư mà Mortenson đã đi qua ngay trước khi bị bắt cóc. Và sự hiểu biết của vị đại tá về việc Mortenson lúc ban đầu đã bị bộ tộc của ông đối xử như thế nào đã khiến ông quyết định phải trông chừng không để cho người bạn Mỹ của mình gặp thêm điều gì tai hại nữa.

Faisal Baig đưa tay lên cầu Allah và thực hiện một dua, cảm ơn Allah đã gửi quân đội tới bảo vệ những người Mỹ. Gói ghém hành lí, không suy nghĩ về nơi mình sẽ đến, anh leo vào chiếc trực thăng cùng với Mortenson và gia đình McCown, chỉ để chắc chắn rằng vòng đai an minh của họ là không thể phá vỡ được.

Từ trên không, họ gọi về Mỹ bằng điện thoại của Mortenson, cố rút ngắn cuộc gọi vì pin chỉ còn sử dụng được bốn mươi phút. Qua Tara và Karen, vợ của McCown, họ biết được các chi tiết của những vụ tấn công khủng bố.

Nhét ống nghe vào sâu hơn trong tai, Mortenson liếc mắt nhìn khung cảnh như tranh cắt dán của các đỉnh núi mà anh có thể nhận ra qua những ô cửa nhỏ của chiếc MI-17, cố giữ ăng-ten điện thoại hướng về phía nam, nơi có các vệ tinh phản hồi giọng nói của vợ anh bay trên quỹ đạo.

Tara quá nhẹ nhõm khi nghe tiếng chồng và òa khóc, nói với anh rằng cô yêu anh nhiều như thế nào qua bầu khí quyển nhiễu sóng gây bực bội. “Em biết anh đang ở quê hương thứ hai của anh và họ sẽ giữ cho anh được an toàn.” cô hét lên. “Hãy kết thúc công việc rồi trở về nhà với em, anh yêu.”

McCown, từng phục vụ trong Bộ Chỉ huy Chiến lược Không quân Mỹ, tiếp nhiên liệu cho những chiếc B-52 mang bom hạt nhân giữa không trung, đã có một nhận thức sống động về số phận đang chờ đợi Afghanistan. “Cá nhân tôi có quen biết Rumsfeld, Rice và Powell, vì vậy tôi biết chúng ta sắp đi vào chiến tranh.” McCown nói. “Và tôi hình dung nếu bè lũ Al Qaeda đứng sau chuyện này thì chúng ta sắp bắt đầu ném bom đưa bất cứ thứ gì còn lại ởAfghanistan vào quên lãng trong bất cứ giây phút nào.”

“Nếu điều đó xảy ra, tôi không biết Musharraf sẽ đi theo con đường nào. Ngay cả khi ông ta nhảy về phía Mỹ, tôi cũng không biết quân đội Pakistan có nhảy theo ông ta hay không vì họ đã ủng hộ Taliban. Tôi nhận thức rằng chúng ta có thể có một kết cục như những con tin và tôi e rằng chúng ta phải rời khỏi đây ngay.”

Người thợ máy trên chuyến bay xin lỗi vì không có đủ bộ nghe tai cho mọi người và đưa cho Mortenson một cặp nút nhét tai màu vàng. Anh nhét vào tai và ép mặt mình vào một ô cửa, tận hưởng cảnh quan mà sự im lặng dường như khuyếch đại lên. Bên dưới họ, những sườn đồi dốc theo từng bậc của thung lũng Hunza dựng lên như những tấm chăn bông điên dại, vá víu từng mảnh với nhau theo đủ mọi sắc độ của màu xanh, phủ lên những sườn núi đá kềnh càng màu xám.

Từ trên không, những vấn đề của Pakistan hiện ra một cách đơn giản. Đó là những dòng sông băng treo màu xanh lá của Rakaposhi, vỡ vụn ra dưới mặt trời nhiệt đới. Đó là dòng suối mang đứa con của tuyết. Bên dưới là những ngôi làng thiếu nước. Mortenon liếc mắt theo những dấu vết của những con kênh tưới mang nước đến từng mảnh ruộng bậc thang của làng. Từ độ cao này, việc nuôi dưỡng sự sống và thịnh vượng trong từng khu định cư tách biệt dường như chỉ đơn giản là việc vạch ra những đường thẳng để làm chệch hướng nước.

Sự bướng bỉnh rắc rối của các giáo sĩ làng chống đối việc giáo dục bé gái không nhìn thấy được từ độ cao này, Mortenson nghĩ. Cũng như mạng nhện chính trị địa phương có thể đánh bẩy sự tiến bộ của một trung tâm dạy nghề phụ nữ hay làm chậm việc xây dựng một ngôi trường và làm thế nào có thể hi vọng nhận diện ra những hang ổ của chủ nghĩa cực đoan, mọc lên như những khối u ác tính trong những thung lũng dễ tổn thương này, khi mà chúng cẩn thận ẩn mình sau những bức tường cao và tự che đậy mình với cái cớ của việc giáo dục?

Chiếc MI-17 hạ cánh ở Shangri-La, một khu nghỉ dưỡng câu cá đắt tiền do các tướng Pakistan làm chủ trên một cái hồ cách Skardu một giờ bay về phía tây. Trong căn nhà của chủ nhân, nơi một đĩa ăng-ten vệ tinh rà theo một phiên bản chương trình CNN nhiễu lốm đốm trắng, McCown trải qua một buổi chiều và buổi tối lặng người theo dõi cảnh quay những chiếc máy bay màu bạc biến thành những tên lửa đâm vào Hạ Manhattan, và những tòa nhà như những con tàu bị trúng thủy lôi chìm vào một biển tro.

Trong Jamia Rarul Uloom Haqqania madrassa ở Peshawar, vốn được dịch là “Trường Đại học của Kiến thức Chính thống” các học viên về sau khoe với New York Time rằng họ đã ăn mừng ngày hôm đó như thế nào sau khi nghe tin về vụ tấn công - họ hân hoan chạy qua khu nhà bề bộn, đấm những ngón tay vào lòng bàn tay, nhại theo điều mà các giáo viên của họ đã dạy rằng ý chí của Allah bằng hành động - cú đập của những chiếc máy bay lẽ ra phải va vào những tòa nhà văn phòng của bọn ngoại đạo.

Giờ đây, hơn lúc nào hết, Mortenson thấy rõ sự cần thiết phải cống hiến bản thân mình cho giáo dục. McCown đang lo lắng muốn rời khỏi Pakistan bằng bất cứ con đường nào, và “nướng” hết pin điện thoại, cố gắng gọi các trợ lí kinh doanh đến gặp ông ở biên giới Ấn Độ hay sắp xếp những chuyến bay đến Trung Quốc. Nhưng tất cả các đồn biên giới đều đã đóng chặt và các chuyến bay quốc tế không cất cánh. “Tôi nói với George, lúc này anh đang ở chỗ an toàn nhất trên thế giới.” Mortenson nói. “Những người dân này sẽ bảo vệ anh bằng mạng sống của họ. Vì chúng ta không thể đi bất cứ đâu, vậy sao chúng ta không theo chương trình ban đầu cho đến khi anh có thể lên máy bay?”

Ngày hôm sau, tướng Bashir đã sắp xếp chiếc MI-l7 đưa phái đoàn của McCown theo một chuyến bay thám sát K2 để giải trí trong khi ông tìm cách gửi McCown và gia đình về quê nhà. Áp mặt vào ô cửa một lần nữa, Mortenson thấy trường Korphe trôi qua ở xa bên dưới, một hình lưỡi liềm lấp lóe mờ nhạt như hi vọng, giữa những cánh đồng xanh như ngọc của làng. Trở lại Korphe và uống trà cùng Haji Ali vào mỗi mùa thu trước khi trở về Mỹ đã trở thành một thói quen của anh. Anh tự hứa với bản thân rằng sẽ sớm đến thăm ông sớm ngay khi đã hộ tống những vị khách của mình rời khỏi đất nước này một cách an toàn.

Thứ sáu, ngày 14 tháng 9, Mortenson và McCown đi xe một giờ về phía tây đến Kuardu trên chiếc Land Cruiser, dẫn đầu một đoàn xe nhiều hơn bình thường từ khi tin buồn từ phía xa của thế giới đến với Baltistan. “Dường như mọi chính trị gia, lãnh đạo, cảnh sát, quân sự và tôn giáo ở bắc Pakistan đều đến để giúp chúng tôi khánh thành trường Kuardu.” Mortenson nói.

Trường tiểu học Kuardu đã hoàn thành và đi vào giảng dạy cho học sinh từ nhiều năm. Nhưng Changazi đã hoãn việc khánh thành chính thức cho đến khi có thể sắp xếp được một sự kiện hứa hẹn hoành tráng đúng mức, Mortenson nói.

Có quá nhiều người chen nhau vào sân, họ vừa nhai hạt mơ vừa chen chúc xung quanh, khiến cho ngay cả ngôi trường cũng khó được nhìn thấy. Nhưng chủ đề của ngày hôm nay không phải là một tòa nhà. Chính Syed Abbas là diễn giả nổi bật. Và với thế giới Hồi giáo đang bị cuốn vào cơn khủng hoảng, người dân Baltistan bám vào từng lời của vị lãnh đạo tôn giáo tối cao của họ.

“Bismillah ir-Rahman ir-Rahim.” ông bắt đầu “Nhân danh Allah toàn năng, nhân đức, từ tâm. As-Salaam Alaaikum” - “Hòa bình cho các bạn.”

“Do định mệnh mà Thánh Allah toàn năng đã đem chúng ta lại với nhau trong giờ phút này.” Syed Abbas nói. Sân khấu nơi ông đứng, không nhìn thấy được giữa những thân người chen chật, làm cho ông như nổi trội giữa đám đông trong bộ áo choàng và chiếc khăn xếp quấn đầu màu đen. “Hôm nay là ngày mà con em các bạn sẽ nhớ mãi và kể lại cho con cháu mình. Hôm nay, từ bóng tối của sự thất học, ánh sáng của giáo dục chiếu sáng rực rỡ.”

“Chúng ta chia sẻ đau buồn với những người dân đang than khóc và chịu đau khổ ở Mỹ trong ngày hôm nay.” ông nói, đẩy cặp kính sát vào. “Khi chúng ta khánh thành trường học này, những kẻ đã gây ra hành động quỷ dữ chống lại những người vô tội, phụ nữ và trẻ em, tạo ra hàng nghìn góa phụ, trẻ mồ côi đã không làm điều đó nhân danh Hồi giáo. Ơn đức Allah toàn năng, công lí sẽ phán xét chúng.

“Vì thảm kịch này, tôi khiêm tốn cầu xin sự tha thứ của ông George và Greg Shahib. Tất cả các bạn, các đạo hữu của tôi: Hãy bảo vệ và che chở hai người anh em Mỹ này trong lòng chúng ta. Đừng để điều gì làm hại đến họ, hãy chia sẻ tất cả những gì các bạn có để sứ mệnh của họ được hoàn thành.”

“Hai người Thiên Chúa giáo này đã đi nửa vòng trái đất để chỉ cho trẻ em Hồi giáo ánh sáng của giáo dục.” Abbas nói “Vì sao chúng ta lại không thể tự đem giáo dục đến cho con em chúng ta?” Hỡi các bậc cha mẹ, tôi van các bạn dành hết nỗ lực và sự tận tâm để thấy tất cả con em các bạn được giáo dục. Nếu không, chúng sẽ chỉ gặm cỏ như bầy cừu trên cánh đồng, nhờ sự khoan dung của thiên nhiên, và thế giới đang thay đổi quá đáng sợ quanh chúng ta.

Syed Abbas ngừng lại, cân nhắc xem cần nói gì tiếp và không rõ vì sao, ngay cả những đứa bé giữa hàng trăm người chen chúc trong sân cũng im lặng.

“Tôi đề nghị nước Mỹ nhìn vào tấm lòng chúng ta.” Abbas tiếp tục, giọng ông kéo dài vì xúc động, “Và thấy rằng đại đa số chúng ta không phải là những kẻ khủng bố, mà là những người tốt và đơn giản. Đất nước chúng ta bị hành hạ bởi đói nghèo vì chúng ta không có giáo dục. Nhưng ngày nay, một ngọn nến của kiến thức đã được thắp lên. Nhân danh Allah toàn năng, ánh sáng đó có thể soi sáng con đường cho chúng ta tự ra khỏi bóng tối.”

“Thật là một bài diễn văn phi thường.” Mortenson nói. “Và khi Syed Abbas nói xong, cả đám đông đều rơi lệ. Tôi ước gì tất cả những người Mỹ đang nghĩ Hồi giáo là một cách nói khác của khủng bố có thể có mặt ở đây, trong ngày hôm đó. Những người chủ thực sự của Hồi giáo là công lí, khoan dung và nhân hậu, và Syed Abbas đại diện cho trung tâm ôn hòa của niềm tin Hồi giáo một cách hùng hồn.”

Sau nghi lễ, nhiều góa phụ Kuardu xếp hàng để bày tỏ lời chia buồn với McCown và Mortenson. Họ dúi những quả trứng vào tay hai người Mỹ, van nài cả hai mang theo những vật biểu hiện đau buồn đó đến cho những người chị em phương xa mà họ mong muốn được cùng an ủi, những góa phụ của làng New York.

Mortenson nhìn những quả trứng còn tươi nguyên đặt đầy trong lòng bàn tay của mình, anh khum đôi bàn tay lớn bao bọc quanh những quả trứng khi đi về phía chiếc Land Cruiser, suy nghĩ về những đứa trẻ đã ở trên những chiếc máy bay và những đứa con của chính anh ở quê nhà. Giờ đây, đi quanh đám đông những người đàn ông râu dài, trên một tấm thảm với những vỏ hạt mơ vỡ vụn bên dưới, bất lực, ngay cả việc vẫy tay chào tạm biệt, mọi thứ trên thế giới này đều dễ vỡ.

Ngày hôm sau, đại tá Ilya hộ tống họ đến Islamabad trên chiếc MI-17, họ hạ cánh ở một bãi đáp trực thăng dành riêng cho Tổng thống Musharaff, với mức độ an ninh được nâng cao. Những người Mỹ ngồi trong phòng đợi được nhiều người canh gác, kế bên một lò sưởi trang trí đá hoa mà dường như chưa bao giờ được sử dụng, bên dưới tấm chân dung sơn dầu của vị tướng mặc lễ phục.

Đích thân tướng Bashir hạ cánh xuống bên ngoài trên một chiếc Alouette từ thời chiến tranh Việt Nam, được giới quân sự Pakistan đặt tên là “Ống sáo Pháp”, vì nó đáng tin cậy hơn chiếc Huey cùng thời của Mỹ mà họ cũng sử dụng. “Đại bàng đã hạ cánh.” Ilya thông báo một cách kịch tính, khi Bashir, trán hói và trông giống một con bò mộng trong bộ đồ bay, nhảy xuống mặt sân nhựa đường để vẫy họ vào.

Bashir cho máy bay bay thấp và ôm nhanh theo những sườn đồi cây bụi, và lúc mà cảnh quan đáng chú ý nhất của Islamabab, giáo đường Faisal do Ả Rập tài trợ, với bốn tháp và đại sảnh cầu nguyện giống như một cái lều có sức chứa bảy mươi nghìn người sùng đạo, đã mờ dần ở phía sau thì họ thực sự đã đến Lahore. Vị tướng cho chiếc Alouette đáp xuống giữa một đường xe taxi ở sân bay quốc tế Lahore, cách một chiếc 747 của hàng không Singapore năm chục mét, chiếc máy bay sẽ đưa McCown và gia đình mình rời khỏi vùng đất rõ ràng là đang sắp trở thành vùng chiến sự.

Sau khi ôm chào Mortenson và Faisal Baig, McCown và các con được Bashir hộ tống đến những ghế ngồi hạng nhất, ông nói lời xin lỗi những hành khách khác trên chuyến bay mà mình đã làm trễ, ở lại cùng những người Mỹ cho đến khi máy bay sắp cất cánh.

“Nghĩ lại về tất cả những chuyện đó,” Mc Cown nói. “Mọi người ở Pakistan đều đối xử tuyệt vời với chúng tôi. Tôi đã lo lắng nghĩ đến điều gì sẽ xảy ra cho chúng tôi ở cái đất nước Hồi giáo được cho là đáng sợ đó. Nhưng không có chuyện gì xảy ra.” Chuyện tồi tệ chỉ xảy ra khi tôi đã rời khỏi đó.”

Một tuần lễ sau, McCown nằm bẹp trong khách sạn sang trọng Raftles ở Singapore, hồi phục sau khi bị ngộ độc đường ruột mà ông mắc phải từ thức ăn hạng nhất của hàng không Singapore.

Mortenson trở về phương bắc, hướng về Haji Ali, đáp một chuyến bay vận tải quân sự đến Skardu trước khi ngủ suốt quãng đường đến Shigar ở thung lũng Braldu trong ghế sau của chiếc Land Cruiser, trong khi Hussain lái xe và Braig nhìn chăm chăm về phía chân trời với đôi mắt cảnh giác.

Đám đông đứng trên mỏm đá ở bờ xa bên sông Braldu để chào đón anh dường như có điều gì không hay. Rồi khi bước trên cây cầu đong đưa, Mortenson như muốn ngừng thở khi anh nhìn lướt qua bờ xa của gờ đá. Điểm cao mà Haji Ali vẫn thường đứng, độc lập như một tảng đá, nay trống không. Twaha gặp Mortenson ở bờ sông và cho anh biết tin.

Trong tháng sau khi cha chết, Twaha đã để râu và cạo đầu để tang. Với bộ râu trên mặt, nét giống nhau giữa hai cha con lại càng rõ hơn bao giờ hết. Mùa thu năm trước, khi đến đây để uống trà cùng Haji Ali, Mortenson đã thấy nurmadhar Korphe quẫn trí. Vợ ông, Sakina, đã nằm liệt giường từ mùa hè năm đó, khổ sở vì đau bao tử, cố khắc phục ốm đau bằng sự kiên nhẫn của người Balti, bà đã từ chối thực hiện chuyến đi dài để đến bệnh viện ở miền xuôi.

Cùng Haji Ali, Mortenson đã đến thăm nghĩa trang Korphe, trên một cánh đồng không xa trường học. Haji Ali, chậm chạp vì tuổi tác, khó nhọc quỳ gối chạm vào phiến đá đơn giản đặt tại nơi mà Sakina được chôn cất, quay mặt về phía Mecca. Khi đứng lên, đôi mắt ông ướt đẫm. “Không có bà ấy, tôi chẳng là gì cả.” Haji Ali nói với đứa con trai người Mỹ của mình, “Chẳng là gì cả.”

“Đối với một người Hồi giáo Shia bảo thủ thì đó là một lời thổ lộ khác thường.” Mortenson nói, “Nhiều người đàn ông có thể đã cảm nhận như vậy về vợ mình, nhưng rất ít người có can đảm nói ra.”

Rồi Haji Ali đặt tay mình lên vai Mortenson, cơ thể ông vẫn đang run lên, Mortenson đoán rằng ông vẫn còn khóc. Nhưng tiếng cười khàn khàn của Haji Ali do mấy chục năm nhai naswar thì không thể nhầm lẫn được.

“Một ngày không xa, anh sẽ đến đây để tìm ta và thấy ta cũng đã được trồng vào trong đất.” Haji Ali lặng lẽ nói.

“Tôi chẳng thấy có gì vui với ý nghĩ rằng Haji Ali sắp chết.” Mortenson nói, giọng anh vỡ ra khi cố nói về cái chết của người đàn ông này sau nhiều năm. Anh quấn chặt người thầy đã dạy mình quá nhiều bằng một cái ôm và hỏi xin thêm một bài học nữa.

“Tôi phải làm gì? Trong thời gian dài kể từ lúc này, khi cái ngày đó đến?” Anh hỏi.

Haji Ali ngước nhìn về phía đỉnh Korphe K2, cân nhắc từng lời “Hãy lắng nghe tiếng gió.” ông nói.

Cùng Twaha, Mortenson quỳ xuống trước nấm mồ còn mới để tỏ lòng tôn trọng vị trưởng làng Korphe đã khuất. Con người mà đôi khi từ trái tim ông đã toát ra điều mà Twaha nghĩ rằng đó là tám mươi năm cuộc đời của cha mình. Không có gì trường tồn, Mortenson nghĩ. Bất chấp mọi công trình của chúng ta, không có gì là vĩnh cữu.

Trái tim của cha anh không để cho nó sống quá bốn mươi tám năm, quá sớm để Mortenson hỏi đủ những câu hỏi mà cuộc đời chồng chất quanh anh. Và giờ đây người đàn ông Balti không thể thay thế được đã giúp lấp đầy một phần sự trống rỗng đó, là ngươi đã cho anh quá nhiều bài học mà anh không bao giờ học được, đang mục nát trong đất bên cạnh vợ mình.

Mortenson đứng dậy, cố tưởng tượng ra Haji Ali sẽ nói gì trong một khoảnh khắc như thế này, một thời kì đen tối trong lịch sử, khi tất cả những gì mà ta thương yêu đều có thể vỡ ra như một quả trứng. Nhưng lời của ông vang vọng trở lại với sự rõ ràng của một ảo giác.

“Hãy lắng nghe tiếng gió.”

Vì vậy, khi chăm chú lắng nghe điều mà nếu không lắng nghe thì anh có thể bỏ mất, Mortenson đã nghe. Anh đã nghe gió rít trong khe Braldu, mang theo những tiếng rì rầm của tuyết và cái chết của mùa. Nhưng trong ngọn gió quất qua rìa đá, nơi mà con người sống sót không rõ vì sao, trên cao của Himalaya, anh cũng nghe cả tiếng nhạc rung lên của những giọng trẻ em, đang chơi trong sân trường Korphe. Khẽ chạm các đầu ngón tay vào những giọt nước mắt nóng ấm, Mortenson nhận ra đó là bài học cuối cùng của anh. “Hãy nghĩ về chúng,” anh nghĩ. “Hãy luôn nghĩ về chúng.”