Chương 44 MỐI THÙ TRUYỀN KIẾP
Bertuccio hỏi:
- Thưa ngài bá tước! Ngài muốn tôi bắt đầu từ đâu?
- Tùy ông, tôi có biết gì đâu mà muốn với không muốn.
- Tôi tưởng linh mục Busoni đã nói với ngài...
- Có! Một vài chi tiết thôi, nhưng đã bảy tám năm nay rồi, tôi chẳng còn nhớ mấy tý.
- Vậy tôi có thể, không làm nhàm tai ngài chứ?
- Cứ nói đi. Ông thay tờ báo buổi tối cho tôi.
Bertuccio bắt đầu kể:
- Sự việc diễn ra từ năm 1815, trong thời kỳ Hoàng đế Napoléon trở lại ngôi báu một trăm ngày. Tôi có một người anh cả, thiếu úy trong đạo quân viễn chinh của Hoàng đế, bị thương trong cuộc thất trận ở Waterloo, theo đơn vị rút lui về miền Nam nước Pháp. Một hôm, tôi nhận được thư của anh tôi viết từ Nimes bảo tôi gửi cho ít tiền. Tôi rất thương anh nên còn một nghìn frăng tôi đưa cho chị dâu tôi một nửa, còn một nửa tôi lên đường đem đi Nimes. Lúc này ở miền Nam nước Pháp, vì tình hình chính trị hỗn loạn, trộm cướp nổi lên như rươi và những vụ giết người, cướp của thường diễn ra hàng ngày. Tôi tới quán trọ mà anh tôi đã hẹn tới, thì đau đớn quá, anh tôi đã bị người ta giết chết từ hôm trước, và không biết thủ phạm là ai.
Tôi tới yết kiến quan chưởng lý Villefort, trước kia làm phó biện lý ở Marseille, yêu cầu ngài mở cuộc điều tra để tìm ra thủ phạm. Lúc được biết anh tôi là người đảo Corse và là sĩ quan của Napoléon, Villefort trắng trợn nói, anh tôi chết là đáng đời vì nếu còn sống cũng sẽ bị xử bắn về tội theo kẻ tiếm ngôi. Tôi van nài xin cho chị dâu tôi được hưởng món tiền tủ tuất thì y cũng từ chối nốt. Tôi ra về, căm thù y thâm gan tím ruột, và ngài cũng biết rằng, một khi người Corse chúng tôi căm thù ai thì ghê gớm lắm. Tôi quyết trả thù cho anh tôi và, nếu không giết được hung thủ, tôi cũng tìm cách hạ sát được kẻ đã lăng mạ anh tôi. Tôi nói thẳng vào mặt Villefort là kể từ giờ phút này tôi sẽ không đội trời chung với y. Y biết là thế nào tôi cũng giữ lời thề nên đâm hoảng, phải xin thuyên chuyển đi Versailles.
Dù xa xôi tới mấy tôi cũng lặn lội tới được chỗ ở của y. Tôi có thể giết được y một cách dễ dàng nhưng phải làm thế nào để khỏi bị bắt. Trong ba tháng trời, tôi theo dõi y từng bước, và một hôm, tôi thấy y bí mật tới Auteuil, vào ngôi nhà này bằng cửa ngách ở khu vườn. Ngôi nhà này là nhà nghỉ mát của hầu tước Saint Méran, bố vợ của Villefort. Vì hầu tước ở Marseille nên ngôi nhà bỏ trống và cho một nữ nam tước goá chồng thuê.
Một buổi tối, tôi đứng nấp ngoài hàng rào, thấy một thiếu phụ trẻ, đẹp đi thơ thẩn một mình trong vườn, thỉnh thoảng lại nhìn ra phía cửa ngách. Khi thiếu phụ tới gần, tôi nhận ra cô chỉ độ mười tám tuổi, mặc áo choàng ngủ, để lộ một cái bụng to tướng, có lẽ sắp tới ngày ở cữ. Một lát sau, cửa mở, một người đàn ông bước ra, hai người ôm nhau đi vào trong nhà. Người đàn ông chính là Villefort, còn thiếu phụ thì tôi không biết tên. Tôi bèn đi quanh nhà quan sát rất kỹ lưỡng, chờ cơ hội thuận tiện.
Ba hôm sau, vào quãng bảy giờ tối, tôi thấy một người đầy tớ trong nhà cưỡi ngựa đi về Versailles, tôi đoán là đi tìm Villefort. Quả nhiên ba giờ sau y cưỡi ngựa đến vào trong vườn, khóa cửa lại rồi vào nhà. Tôi lẻn vào vườn nấp đằng sau lùm cây vì cho rằng lúc ra về thế nào Villefort cũng đi qua đây.
Đêm hôm đó, vào khoảng cuối tháng Chín, trời tối đen, gió thổi rất mạnh. Đến nửa đêm, tôi nghe trong nhà có tiếng rên rỉ. Đèn cầu thang thắp sáng, một người mặc áo choàng bước ra vườn, tay cầm một vật gì. Khi người ấy tới gần lùm cây tôi nhận ra là Villefort. Tay y cầm một cái cuốc, chưa hiểu y dùng cuốc để làm gì. Tôi rút dao găm ra chờ lúc hành sự. Tôi thấy y bỏ cái bọc giấu trong áo choàng ra và cầm cuốc đào một cái hố. Tôi nhìn kỹ, thấy cái bọc là một cái hòm nhỏ, dài khoảng sáu mươi, rộng hai mươi phân. Y đào xong, bỏ cái hòm xuống, lấp đất lên và lấy cuốc san phẳng mặt đất.
Nhanh như cắt, tôi nhảy tới, đâm một nhát trúng ngực y và hét to: "Ta là Bertuccio, ta trả thù cho anh ta và mang số tiền bạc mi chôn giấu về cho chị dâu ta". Tôi bới cái hòm lên, lấp đất lại như cũ rồi nhảy qua hàng rào chuồn thẳng.
Tôi chạy một mạch ra bờ sông, ngồi nghỉ một lát rồi lấy dao nạy nắp hòm ra để xem vớ được bao nhiêu tiền. Nhưng lạy Chúa! Trong một cái tã bằng vải rất mịn, bọc một hài nhi đỏ hỏn còn thoi thóp thở. Tôi bèn ghé miệng vào mình đứa trẻ, để truyền vào ngực nó hơi thở nóng hổi của tôi và một lát sau nó thét lên một tiếng, nhưng là một tiếng vui mừng. "Ôi! Lạy Chúa! Xin Chúa hãy tha tội cho con, con đã tiêu diệt một mạng người để đổi lấy một cuộc sống của một mạng người!".
Tôi bèn tìm đến một cô nhi viện, nói là nhặt được đứa bé ở dọc đường, và trước khi trao đứa bé cho người ta, tôi đã cắt đôi chiếc tã giữa hai chữ thêu ở góc, và giữ lại một nửa. Trên cái tã có thêu hai chữ H và N.
Mười lăm hôm sau, tôi trở về làng nói cho chị dâu tôi biết, tôi đã trả thù cho anh tôi rồi và kể chuyện cứu sống được đứa trẻ. Chị tôi ngỏ ý tiếc là tại sao không đem về nuôi để chuộc tội với Chúa. Tôi bèn đưa nửa mảnh tã cho chị dâu tôi và nói bao giờ có tiền sẽ đến chuộc đứa bé về.
Để xua đuổi những hình ảnh quá hãi hùng và cũng để cưu mang người chị dâu tôi quá khổ cực, tôi trở thành một tay buôn lậu ở vùng biển miền Nam nước Pháp. Bọn chúng tôi thường giao dịch với tên chủ quán trọ ở Beaucaire mang tên "Quán trọ cầu sông Gard". Công việc làm ăn của tôi khá phát đạt vì có những mánh lới tinh vi, vì tính gan dạ và kiên trì, nhẫn nhục. Một ngày kia, tôi trở về nhà sau một thời gian khá dài vắng mặt, vừa bước vào cửa đã thấy trong buồng chị Assunta, có một cái nôi rất đẹp, bên trong đặt một đứa con trai bảy, tám tháng. Thì ra chị dâu tôi, trong lúc tôi vắng nhà, đã lên tận Paris xin đứa bé về sau khi đưa mảnh tã làm chứng.
Tôi vô cùng sung sướng vớ được thằng bé và cho là Thượng đế đã ban ân cho tôi. Tôi hết lòng yêu quý nó và chị dâu tôi cũng rất nuông chiều nó. Tôi đặt tên cho nó là Benedetto. Ôi! Thằng bé nom ngộ nghĩnh quá! Đôi mắt xanh biếc. Mớ tóc vàng làm nổi bật nước da trắng mịn và nó có cái miệng cười rất hóm hỉnh. Ngày nào chị dâu tôi đi chợ cũng mua về cho nó rất nhiều quà bánh, và cũng chỉ vì quá nuông chiều nên nó đâm ra hư hỏng. Khi nó lên sáu tuổi, hàng xóm luôn kêu mất những thứ lặt vặt, và có một hôm nó ăn cắp một đồng tiền vàng của một người ở cạnh nhà. Nó biến mất suốt ngày hôm đó và mãi đến chiều tối mới vác mặt về nhà, đem theo một con khỉ, nó vừa mua được của một anh làm xiếc rong. Tôi giận tái người định cho nó mấy cái tát tai. Nó kêu ầm lên, bảo tôi không phải là cha nó nên không có quyền đánh nó. Tôi đành nhượng bộ. Được thể nó lại càng làm già, chẳng còn coi ai ra gì.
Càng lớn nó càng hung hãn, ngỗ ngược làm lắm điều xằng bậy. Nó tiêu tiền như rác và chị dâu tôi lại sợ nó một phép. Mới hơn mười tuổi đầu mà nó đã giao du với những thằng ba que xỏ lá, lưu manh côn đồ nhất vùng, và nhà chức trách đã nhiều lần phải cảnh cáo nó. Tôi đâm hoảng, định đem nó đi theo tôi, vì tôi nghĩ rằng cuộc đời gian nan, nguy hiểm của nghề buôn lậu sẽ rèn luyện nó trở thành người khôn ngoan, chín chắn. Tôi nói rõ ý định cho nó. Chẳng ngờ nó cười vào mũi tôi, nói là nó chẳng thích làm nghề đó một chút nào, bị vào tù như chơi, vì ở nhà nó cũng kiếm được khối tiền tiêu, bao giờ hết tiền đã có chị dâu tôi cho. Tôi chán nản quá định bụng đi buôn một chuyến nữa, khi nào về sẽ có kế hoạch sau.
Tôi ghé thuyền vào bờ biển miền Nam nước Pháp, tìm đến cái quán trọ trên đường đi Beaucaire mà tên chủ quán là người cùng bọn với chúng tôi. Tên hắn là Caderousse, trước làm thợ may ở Marseille, sau làm ăn thua lỗ phải bò ra đấy.
- Ông nói lại tên chủ quán là gì? - Monte Cristo hỏi, hình như bá tước đã bắt đầu quan tâm đến câu chuyện của Bertuccio.
- Hắn tên là Caderousse, Gaspard Caderousse. Hắn lấy vợ người làng Carconte; chúng tôi không biết tên thật của mụ là gì, ngoài tên làng của mụ. Mụ ta mắc bệnh sốt rét cứ như người sắp chết, còn anh chồng thì to lớn vào quãng bốn tư, bốn lăm tuổi.
- Việc đó xảy ra vào năm nào? - Monte Cristo hỏi tiếp.
- Thưa bá tước! Năm 1829.
- Vào tháng nào?
- Tháng Sáu.
- Đầu hay cuối tháng?
- Vào buổi chiều ngày mồng ba.
- Á! À! - Monte Cristo nói. - Chiều ngày 3 tháng Sáu năm 1829... Tốt! Ông nói tiếp đi.
- Chúng tôi có lệ đi vào nhà hắn không cần công khai, chỉ việc lặng lẽ nhảy qua hàng rào của mảnh vườn rồi trèo lên gác xép chỉ cách phòng ăn một tấm liếp mỏng. Tôi ngồi trên đó, thấy Caderousse dẫn một người lạ mặt vào nhà. Đó là một người mua bán kim hoàn có nhiều vốn liếng ở chợ Beaucaire.
Caderousse bước vào phòng, gọi vợ bảo:
- Này nhà nó, lão linh mục tốt bụng không lừa dối cánh mình đâu. Viên kim cương này trị giá đúng năm chục ngàn frăng và ngài đây sẵn sàng trả với giá đó. Bây giờ, nhà hãy nói cho ngài biết chúng mình đã có viên kim cương trong trường hợp nào. Hình như trời sắp có dông, oi lắm, để tôi đi lấy thức giải khát cho ngài.
Người khách ngồi xuống ghế, ngắm căn buồng rồi nghe mụ vợ Caderousse kể chuyện từ lúc gặp vị linh mục người Ý ra sao, sau đó bảo tên chủ quán cho xem lại viên kim cương. Ông ta cầm viên kim cương, rút cái cân tiểu ly trong túi ra cân, ngắm vuốt một lúc rồi nói chỉ trả cho bốn mươi ngàn vì chỉ đem theo có thế.
Vợ chồng Caderousse đang ngần ngừ thì ông khách rút trong cặp ra một nắm tiền vàng đỏ ối và một thếp giấy bạc làm vợ chồng tên chủ quán hoa cả mắt.
- Được! - Caderousse nói. - Tôi bằng lòng để cho ngài với giá đó nhưng ngài phải thêm cho tôi một sợi dây chuyền và một đôi bông tai.
Người khách rút cái hộp đựng đồ nữ trang ra đưa cho vợ Caderousse một sợi dây chuyền vàng và một đôi hoa tai, rồi xỉa ra bàn đủ số tiền, vừa tiền vàng, vừa tiền giấy.
Riêng tôi, lần đầu tiên trông thấy một món tiền khổng lồ như vậy, tôi cũng phải hoa mắt lên tưởng chừng như mơ ngủ. Trời lúc đó đã xâm xẩm tối. Caderousse thắp đèn lên, đếm đi đếm lại số tiền, còn vị khách đưa viên kim cương lên ngắm nghía; nó óng ánh dưới ánh đèn. Bên ngoài trời đã bắt đầu nổi gió. Mụ Carconte đi lại tủ lấy ra một cái cặp da, bỏ tiền và vàng vào đấy rồi hỏi người khách:
- Ngài nghỉ lại đây ăn cơm với chúng tôi chứ?
Người khách rút đồng hồ ra xem rồi trả lời:
- Cám ơn bà, muộn mất rồi, tôi phải về Beaucaire trước đêm nay kẻo nhà tôi mong. Thôi chào ông bà.
Người khách vừa nói xong bỗng có một tiếng sét dữ dội, tiếp theo đó là một tia chớp sáng lòa ngoài trời.
- Ồ! - Caderousse nói. - Trời như thế này mà ngài cứ ra đi à? Ngài không sợ bọn cướp ư?
- Sợ gì bọn chúng, tôi đã có cái này.
Nói xong, người khách rút trong túi ra một khẩu súng ngắn đã nạp đạn sẵn rồi mở cửa bước ra ngoài. Một luồng gió rất mạnh thổi vào phòng. Caderousse thấy vậy chạy ra đóng sập cửa lại. Sau đó, hắn mở tủ đem cái cặp da ra và cùng mụ vợ đếm lại số tiền. Tay chúng run lên và bộ mặt chúng tái nhợt. Hai vợ chồng chúng nhìn nhau bằng con mắt thăm dò. Mụ vợ lên tiếng trước:
- Anh là một thằng tồi. Nếu không, đời nào lão ta ra khỏi cái nhà này được.
- Trời đất ơi! Nhà nói gì vậy? Không sợ quỷ thần à?
Giữa lúc đó lại thêm một tiếng sét khủng khiếp làm rung chuyển cả quán trọ, rồi có tiếng gõ cửa. Mụ Carconte mỉm cười bảo chồng:
- Đấy quỷ thần đưa lão trở về với chúng ta đó.
Mụ ra mở cửa, còn Caderousse mặt mày xanh xám, thở hổn hển ngồi phịch xuống ghế.
- Xin mời ngài kim hoàn vào. - Mụ Carconte nói.
- Hình như quỷ thần không muốn tôi về Beaucaire tối nay. - Khách nói. - Ông Caderousse thân mến, ông đã mời tôi ở lại, tôi xin nhận lời.