← Quay lại trang sách

CHƯƠNG III SINH VẬT HỌC LỊCH SỬ

Lịch sử chỉ là một phần nhỏ của sinh vật học: Cuộc đời con người chỉ là một trong vô số các biến hóa của các sinh vật trên đất và dưới bể. Đôi khi đi thơ thẩn một mình trong rừng vào một ngày mùa hạ, ta nhìn hoặc nghe thấy sự di động của hằng trăm loài bay, nhảy, bò hoặc chui rúc dưới đất. Chúng giật mình chạy đi khi thấy ta đến. Con thì trốn trong cành lá bụi cây, con thì lặn dưới suối, con thì bay vút lên không. Bỗng nhiên ta cảm thấy mình chỉ thuộc vào một thiểu số luôn luôn sống trong đe dọa trên trái đất vô tình này, và đi bên cạnh những loài ấy, mình đã làm náo động nơi chúng ở trong giây lát, chắc chúng cũng bực mình lắm. Lúc đó, tất cả những thành tích vẻ vang của con người đều trở về cái vị trí tầm thường trong lịch sử và sự biến hóa của một cuộc sống muôn hình vạn trạng. Tất cả các sự cạnh tranh kinh tế, tranh giành trai gái, sự đói khát yêu thương, buồn khổ và chinh chiến của chúng ta, tất cả có khác gì những cuộc săn mồi, giao cấu, chiến đấu và đau khổ đang âm thầm diễn ra dưới thân cây đổ, chiếc lá rụng, dưới nước hoặc trên cành kia không?

Do đó, các định luật sinh lý là bài học căn bản của lịch sử. Chúng ta phải chịu những diễn trình thử thách của tiến hóa, phải chịu sự cạnh tranh để tồn tại, ưu thắng liệt bại. Sở dĩ một số người chúng ta bề ngoài có vẻ thoát khỏi luật đào thải tự nhiên tàn khốc đó là nhờ đoàn thể đã che chở cho chúng ta, nhưng chính đoàn thể đã phải đương đầu với những thử thách đó để tồn tại.

Do đó có bài học đầu tiên này của lịch sử: Đời là một cuộc cạnh tranh. Cạnh tranh không phải chỉ là việc làm ăn mà là việc sinh tử. Cuộc cạnh tranh đó ôn hòa khi có nhiều thức ăn, và trở nên tàn bạo khi số miệng ăn nhiều hơn thức ăn. Các loài vật ăn sống nuốt tươi lẫn nhau mà không biết ân hận gì cả, còn con người văn minh thì thủ tiêu nhau một cách hợp pháp. Sự hợp tác quả thật có đấy, và gia tăng theo sự phát triển xã hội đấy, nhưng phần lớn chính vì nó là một công cụ và hình thức cạnh tranh. Chúng ta hợp tác trong đoàn thể của chúng ta, trong gia đình, xã hội, hội ái hữu, giáo hội, đảng, chủng tộc hoặc quốc gia của chúng ta, để làm tăng cường tư thế cạnh tranh của tập thể chống với các tập thể khác. Tập thể cũng như cá nhân, khi cạnh tranh thì đều tham lam, hiếu chiến, thiên vị và kiêu căng. Quốc gia gồm nhiều người như chúng ta, nên chúng ta ra sao thì quốc gia cũng vậy. Chỉ khác là bản chất của quốc gia đậm hơn, rõ rệt hơn, và cái thiện cái ác của quốc gia cũng lớn hơn của cá nhân rất nhiều. Chúng ta tham lam, hay gây lộn bởi vì trong huyết quản còn dòng máu của ngàn thế hệ đã phải săn đuổi, chiến đấu, giết chóc để sinh tồn, và đã phải ăn đến phình bụng ra vì sợ còn lâu mới kiếm được con mồi khác. Chiến tranh là cách săn mồi để ăn của một quốc gia. Nó tạo ra sự đoàn kết chính vì nó là hình thức cạnh tranh tối cao. Khi nào các quốc gia chưa trở nên thành phần của một tập thể lớn hơn và được tập thể che chở hữu hiệu thì chúng còn tiếp tục hành động như cá nhân và gia đình trong thời kì săn mồi.

Đây là bài học sinh lý thứ hai của lịch sử: Đời là một cuộc đào thải. Trong sự cạnh tranh để có thức ăn, thỏa mãn tính dục hoặc có quyền hành, một số sinh vật thành công, một số thất bại. Trong cuộc đấu tranh để sinh tồn, một số người được trang bị kĩ hơn các người khác. Vì tạo hóa (ở đây có nghĩa là toàn bộ thực tại và các diễn trình của nó) chưa đọc kỹ bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ hoặc Tuyên ngôn Nhân quyền của Cách mạng Pháp, nên sinh ra chúng ta đã không tự do, bình đẳng: Ta phải chịu những di truyền về thể xác và tinh thần, chịu sự chi phối của tập quán cùng truyền thống của tập thể, mỗi người một khác về sức khỏe, sức mạnh, khả năng tinh thần và tính khí. Tạo hóa thích dùng sự dị biệt đó làm chất liệu cần thiết cho sự đào thải và tiến hóa. Ngay cả anh em sánh đôi cũng khác nhau rất nhiều, và không có hai hạt đậu nào hoàn toàn giống nhau cả.

Sự bất bình đẳng không những chỉ tự nhiên và bẩm sinh mà còn gia tăng cùng với sự phức tạp của nền văn minh. Sự bất bình đẳng vì di truyền gây nên sự bất bình đẳng nhân tạo trong xã hội. Bất cứ một phát minh hoặc khám phá nào cũng đều do những cá nhân xuất sắc tạo ra và lợi dụng khiến cho người khỏe lại khỏe thêm và kẻ yếu hóa ra yếu hơn. Phát triển kinh tế gây ra sự chuyên môn hóa các chức vụ, dị biệt hóa khả năng, do đó mà có kẻ quí người hèn đối với tập thể. Nếu biết rất kĩ các người đồng loại thì chúng ta có thể chọn ba mươi phần trăm số người mà khả năng gom lại cũng nhiều bằng tất cả số bảy chục phần trăm kia. Cuộc sống và lịch sử đã lựa chọn, đào thải như vậy đấy, sự bất công vĩ đại đó làm cho ta nhớ tới Thượng Đế của Calvin[1].

Tạo hóa mỉm cười chế nhạo sự phối hợp giữa tự do và bình đẳng trong thế giới không tưởng của chúng ta. Bởi vì tự do và bình đẳng vĩnh viễn là hai kẻ thù không đội trời chung. Khi cái này mạnh thì cái kia phải chết. Cho con người được tự do thì sự bất bình đẳng tự nhiên giữa họ với nhau sẽ gia tăng theo cấp số nhân, như đã xảy ra tại Anh và Mỹ vào thời kỳ tự do kinh doanh ở thế kỉ mười chín. Muốn chặn bớt sự bất bình đẳng thì phải hy sinh tự do, như ở Nga sau 1917. Ngay cả khi bị kiềm chế, sự bất bình đẳng vẫn cứ gia tăng. Chỉ những người ở dưới mức trung bình về khả năng kinh tế mới muốn có bình đẳng. Những người nào cảm thấy tài giỏi thì lại muốn tự do. Rốt cuộc hạng tài năng thường được toại nguyện. Xét về phương diện sinh lí, những quan niệm không tưởng về bình đẳng không thể nào đứng vững được. Và các nhà hiền triết đầy hảo ý chỉ có thể ước ao được một tình trạng gần như bình đẳng về pháp luật và giáo dục thôi. Một xã hội trong đó mọi khả năng tiềm tàng được tự do phát triển và hoạt động sẽ có ưu thế tồn tại đối với các nhóm cạnh tranh khác. Ngày nay (vì phương tiện giao thông và truyền tin rất tiến bộ) các quốc gia hóa ra gần nhau hơn, tiếp xúc, xung đột nhau nhiều hơn, nên sự cạnh tranh càng trở nên gay go hơn.

Bài học sinh lí thứ ba của lịch sử là: Cuộc sống phải sinh sản, tăng gia lên. Tạo hóa không chấp nhận những cơ thể, biến trạng hoặc tập thể không biết sinh sôi nảy nở. Tạo hóa đòi hỏi phải có nhiều về lượng rồi mới lựa chọn về phẩm. Tạo hóa thích những đàn con đông và say mê những cuộc đấu tranh để giành sự sống còn cho một số ít kẻ mạnh. Tạo hóa chắc hẳn phải hài lòng được chứng kiến hằng ngàn tinh trùng đua nhau vượt lên để gieo tinh cho một cái noãn. Tạo hóa chú trọng đến chủng loại nhiều hơn là cơ thể và cũng không cần phân biệt giữa văn minh và mọi rợ. Tạo hóa không cần biết rằng sinh suất cao thường đi đôi với một nền văn minh thấp và sinh suất thấp thường đi đôi với một nền văn minh cao, và Tạo hóa (hiểu theo nghĩa toàn thể các diễn trình sinh nở, biến thể, cạnh tranh, đào thải và sinh tồn) lại còn cố tình để cho các quốc gia có sinh suất thấp lâu lâu đều đều bị chinh phạt bởi các tập thể khỏe mạnh và sinh sản nhiều hơn. Dưới thời César, dân xứ Gaule chống lại được với dân Đức nhờ các đạo quân La Mã, và ngày nay [Pháp] chống lại được Đức nhờ các đạo quân Anh, Mĩ. Khi La Mã suy tàn, dân Franc từ Đức kéo sang và biến xứ Gaule thành nước Pháp. Giả sử Anh và Mĩ lại suy tàn (như La Mã) thì nước Pháp với dân số gần như không thay đổi trong suốt thể kỉ XIX, có thể lại bị chinh phục.

Nếu loài người trở nên đông quá không kiếm đủ thức ăn thì Tạo hóa có ba cách để lập lại thế quân bình: nạn đói, bệnh dịch và chiến tranh. Trong tác phẩm nổi danh Luận về Dân số (1798) Thomas Malthus cho rằng nếu không có những sự kiềm chế định kì đó thì sinh suất sẽ cao hơn tử suất đến nỗi số miệng ăn gia tăng sẽ lấn át cả số gia tăng thực phẩm. Tuy là một nhà tu và một người có thiện ý, nhưng Malthus cho rằng cấp phát tiền và phẩm vật cứu trợ cho người nghèo là khuyến khích họ sinh đẻ bừa bãi, và do đó, làm cho vấn đề thêm trầm trọng. Trong lần xuất bản thứ nhì (1803) ông còn khuyên nên tiết chế giao hợp trừ khi muốn sinh sản, nhưng ông lại không chấp nhận các phương pháp kiểm soát sinh đẻ khác. Biết rằng lời khuyên thánh đức này khó được chấp nhận, nên ông tiên đoán là sự quân bình giữa số miệng ăn và số thức ăn trong tương lai sẽ được duy trì bằng nạn đói, bệnh dịch và chiến tranh như đã từng xảy ra trong quá khứ.

Những tiến bộ về kĩ thuật canh tác và cách ngừa thai trong thể kỉ XIX có vẻ đã bác bỏ lập luận của Malthus: tại Anh, Hoa Kì, Đức và Pháp, số cung thực phẩm đã theo kịp đà sinh sản, và mức sinh hoạt cao đã trì hoãn tuổi thành hôn, giảm số con trong gia đình. Có thêm người ăn thì cũng có thêm người sản xuất: những bàn tay mới đã khai thác đất nước để có thêm thực phẩm. Mới đây, Gia Nã Đại và Hoa Kì đã xuất cảng hằng triệu giạ lúa mì mà trong nước lại không bị nạn đói và bệnh dịch. Đó là câu trả lời Malthus sống động nhất. Nếu áp dụng kiến thức canh tác hiện nay khắp mọi nơi thì trái đất có thể nuôi sống một dân số đông gấp đôi số hiện tại.

Lẽ dĩ nhiên Malthus sẽ trả lời là giải pháp này chỉ làm trì hoãn cơn đại họa. Đất màu mỡ có giới hạn, chẳng sớm thì muộn các tiến bộ về kĩ thuật canh tác cũng mất hiệu lực vì số sanh nhiều hơn số tử. Trong khi đó y tế, vệ sinh và các công cuộc cứu trợ làm luật đào thải trở nên vô hiệu, khiến cho kẻ yếu sống sót để sinh thêm ra kẻ yếu khác. Để trả lời lập luận này, người ta hi vọng rằng các tiến triển trong lĩnh vực kĩ nghệ, đô thị hóa, giáo dục, và mức sinh hoạt tại các nước hiện nay đang là mối đe dọa cho thế giới vì quá đông dân cư, có lẽ sẽ đưa tới hậu quả làm giảm sinh suất như đã xảy ra tại Bắc Mĩ và Âu Châu. Cho tới khi đạt được mức bình quân giữa sản xuất và sinh sản, thì vì lí do nhân đạo, ta nên khuyến cáo việc phổ biến các kiến thức và phương pháp ngừa thai. Theo lẽ thường, sự sinh con đẻ cái phải là đặc quyền của những người khỏe mạnh chứ không phải là phó sản của sự kích thích tính dục.

Có bằng chứng nào cho thấy kiểm soát sinh đẻ sẽ làm cho nòi giống suy nhược không? Chắc là các người thông minh đã hạn chế sinh đẻ nhiều hơn người thường và cơ hồ trong mỗi thế hệ, sức sinh sản quá mức của những người kém hiểu biết đã làm cho nỗ lực của các nhà giáo dục hóa ra công dã tràng. Nhưng cái chúng ta gọi là óc thông minh phần lớn do kết quả của giáo dục, cơ hội và kinh nghiệm mỗi cá nhân, và không có bằng chứng nào cho thấy trí tuệ đã luyện được đó sẽ di truyền cho con cái. Ngay cả con các tiến sĩ cũng phải được giáo dục, phải trải qua những lỗi lầm và những cơn khủng hoảng về giáo điều, về niềm tin của tuổi trưởng thành. Chúng ta không thể nói là có bao nhiêu khả năng hoặc thiên tài tiềm ẩn trong nhiễm sắc thể của những người nghèo sống chật vật và thiếu thốn. Về sinh lí, sức mạnh về thể xác lúc sơ sinh có thể quí hơn dòng dõi trí thức. Nietzsche cho rằng dòng giống tốt nhất tại Đức ở trong huyết quản của nông dân. Các triết gia không phải là vật liệu tốt nhất để giữ cho nòi giống sinh sôi nảy nở.

Hạn chế sinh đẻ đã dự một phần trong lịch sử của Hi Lạp và La Mã. Thật là một chuyện buồn cười khi thấy César (năm 59 trước TL) thưởng cho người dân La Mã nào đông con và cấm những đàn bà hiếm hoi đi kiệu hoặc đeo đồ trang sức. Khoảng bốn chục năm sau, Auguste lại áp dụng chiến thuật ấy nhưng cũng bất lực. Hạn chế sinh đẻ tiếp tục lan tràn trong giới thượng lưu, trong khi đó dân di cư gốc Đức ở phương Bắc, dân Hi Lạp hoặc Trung Đông thay đổi dần thành phần dân số Ý. Rất có thể sự thay đổi chủng tộc này đã làm giảm khả năng và ý chí của dân chúng ngăn chặn ngoại xâm và chống lại sự bất lực của chính quyền.

Tại Mỹ, sinh suất thấp của dân gốc Anglosaxon đã làm giảm quyền hành kinh tế và chính trị của họ. Trong khi đó sinh suất cao hơn của các gia đình theo đạo Ki Tô cho thấy có lẽ vào năm 2000, Giáo hội Ki Tô sẽ là lực lượng mạnh nhất trong các chính phủ liên bang, cũng như tiểu bang và thị xã. Một diễn trình tương tự cũng đang giúp đạo Ki Tô phục hồi tại Pháp, Thụy Sĩ và Đức. Quê hương của Voltaire, Calvin và Luther chẳng bao lâu nữa có thể trở về vùng ảnh hưởng của Giáo hoàng. Thế là sinh suất cũng như chiến tranh, có thể định đoạt số mệnh của các khoa thần học. Năm 732, nếu Hồi giáo không đại bại ở Tours[2] thì kinh Coran đã thay thế kinh Thánh tại Pháp và Y Pha Nho rồi, ngày nay cũng vậy, ưu thế về tổ chức, kỹ thuật, tinh thần, đức tin và sức sinh sản của dân Ki Tô giáo có thể tiêu diệt cả cuộc Cải Cách Thệ phản (Tin Lành) và công trình khai hóa của Pháp. Lịch sử quả là nhà hài hước độc đáo.

Chú thích:

[1] Nhà cải cách tôn giáo Pháp (1509-1564). Giáo phái của ông rất nghiêm khắc, chủ trương rằng Thượng Đế có quyền chí thượng và tuyệt đối.

[2] Sử Pháp gọi trận này là trận Poitiers. Chiến công đó nhờ vua Pháp Charlemagne.