← Quay lại trang sách

CHƯƠNG IV NÒI GIỐNG VÀ LỊCH SỬ

Trên địa cầu có khoảng hai tỉ người da màu và chín trăm triệu người da trắng. Nhưng có nhiều kẻ da trắng[1] mừng lắm khi bá tước Joseph Arthur de Gobineau trong cuốn Luận về sự bất bình đẳng giữa các giống người (1853-1955), bảo rằng nhân loại gồm nhiều nòi giống khác nhau về di truyền từ cơ thể tới khả năng tinh thần và tính nết, và chỉ có mỗi một giống người, giống “aryen” là bản chất cao quí hơn các giống khác.

“Cái gì vĩ đại, cao thượng, phong phú trong công trình của loài người về khoa học, nghệ thuật, văn minh, đều do một khởi điểm duy nhất, đều từ một phôi chủng phát ra…, chỉ thuộc về mỗi một nòi giống mà các chi đã ngự trị trên hết thảy các xứ văn minh trong vũ trụ… Lịch sử cho ta thấy rằng mọi nền văn minh đều phát sinh từ giống da trắng, không một nền văn minh nào không được giống đó giúp đỡ mà có thể tồn tại được, và một xã hội có còn giữ được dòng máu của tập thể cao thượng đã tạo ra nó thì mới còn lớn lao và rực rỡ”[2].

Theo Gobineau, những hoàn cảnh thuận lợi không đủ giải thích sự phát sinh của một nền văn minh, vì những hoàn cảnh tương tự (chẳng hạn những dòng sông có phù sa làm cho đồng ruộng phì nhiêu) đã tưới nhuần các nền văn minh Ai Cập và Cận Đông, lại không tạo được một nền văn minh nào cho giống người da đỏ ở Bắc Mĩ mặc dầu họ sống trên một miền đất cát màu mỡ, dọc theo những dòng sông đẹp đẽ. Các chế độ cũng vậy, không tạo ra được văn minh, vì văn minh phát sinh trong những chế độ khác nhau, có khi trái ngược nhau nữa, chẳng hạn chế độ quân chủ ở Ai Cập và chế độ “dân chủ” ở Athènes. Sự sinh trưởng, thịnh, suy rồi tàn của một nền văn minh tùy thuộc những đặc tính di truyền của nòi giống. Sự degeneration (thoái hóa) của một nền văn minh, theo đúng nghĩa gốc của chữ là sự suy nhược của cái genus (chủng loại), dòng dõi hay nòi giống. “Các dân tộc chỉ thoái hóa vì dòng máu của họ bị pha với dòng máu các dân tộc họ đã chiến thắng”, thường thường là do các hôn nhân giữa một nòi giống mạnh và những nòi giống bị xâm lăng. Do đó mà người da trắng ở Huê Kì và Gia Nã Đại (không kết hôn với người da đỏ) mới phú cường, văn minh hơn người da trắng ở Châu Mĩ La tinh (kết hôn với người da đỏ). Chỉ bọn con cháu suy đồi của những tạp chủng đó mới nói tới sự bình đẳng giữa các giống người hoặc nghĩ rằng “tứ hải giai huynh đệ”. Trái lại những người và những dân tộc mạnh nhận thức được nòi giống của mình và tự nhiên chống lại các cuộc hôn nhân với giống người khác.

Năm 1899, Houston Stewart Chamberlain, một người Anh coi nước Đức là tổ quốc của mình, xuất bản cuốn Die Grundlagen des neunzehnten Jahrhunderts (Nền tảng của thế kỉ XIX), trong đó ông ta rán chứng minh rằng giống người có óc sáng tạo không phải là toàn thể giống Aryen mà chỉ gồm riêng giống Teuton[3]. “Lịch sử thực sự bắt đầu từ khi bàn tay mạnh mẽ của người Nhật Nhĩ Mãn chiếm lấy di sản thời thượng cổ để lại”. Theo Chamberlain thì khuôn mặt của Dante[4] có những nét đặc biệt của giống Nhật Nhĩ Mãn, ông ta cũng nhận ra được giọng Nhật Nhĩ Mãn trong thư của thánh Paul gởi dân xứ Galatie, và tuy không xác nhận rằng chúa Ki Tô là một người Nhật Nhĩ Mãn, nhưng ông quả quyết rằng “kẻ nào bảo chúa Ki Tô gốc Do Thái thì “phi ngu tắc vu” (không ngu xuẩn cũng gian dối). Các văn sĩ Đức nhã nhặn quá nên không cãi lại vị khách kiều cư của họ: Treitschke và Bernhardi bảo người Đức là dân tộc lớn nhất thời cận đại, Wagner đem thuyết đó phổ vào nhạc, Alfred Rosenberg cho dòng máu và đất đai Nhật Nhĩ Mãn là “truyền kì gợi hứng của thế kỉ XX”, sau cùng Adolf Hitler, dựa vào lí thuyết căn bản đó mà lôi cuốn dân Đức trong cuộc diệt chủng tộc Do Thái và xâm chiếm châu Âu.

Trong cuốn The Passing of the Great Race 1916 một người Mĩ, ông Madison Grant bảo chỉ có mỗi một chi nhánh Aryen, mà ông gọi là “chi nhánh bắc” - gồm những dân tộc Scandinavie, Scythe, Nhật Nhĩ Mãn ở miền Baltique, Anh và Mĩ Anglo-Saxon[5] - là tạo nền văn minh. Những giống người tóc vàng, mắt xanh dương, quen với mùa đông lạnh gắt ấy đã tràn qua Nga, miền Balkan mà xuống chiếm miền Nam biếng nhác, u mê, và cuộc xâm lăng đó đánh dấu buổi bình minh của lịch sử. Cũng vẫn theo Grant, giống Sace (Scythe?) chiếm Ấn Độ, tạo ra tiếng Phạn, mà người ta gọi là “tiếng Ấn-Âu”, và thành lập chế độ tập cấp (caste) để dòng máu khỏi lai các giống thổ dân da đen. Giống Cimmérien vượt dãy Caucase và tràn qua Ba Tư, giống Phrygien tràn qua Tiểu Á, giống Acliéen và Dorien tràn vô Hi Lạp và đảo Crète, giống Ombrien và Osque tràn vô Ý. Giống Nordique (phương Bắc) ở đâu cũng là bọn mạo hiểm, hiếu chiến, có kỉ luật, họ ức chế các giống người phương Nam biếng nhác và bất thường, họ hợp chủng với giống Alpine[6], hậu quả là Sparte thắng Athènes trong chiến tranh Péloponnèse, và các dân tộc phương Bắc thuần chủng hơn ở Macédoine [phía Bắc Hi Lạp] và ở La Mã thời Cộng Hòa chiếm được Hi Lạp.

Tiếp theo là nhiều cuộc xâm lăng khác của giống phương Bắc, xuất phát từ Scandinavie và Bắc Germanie: Các giống Goth và Vandale chiếm trọn đế quốc La Mã, các giống Angle và Saxon chiếm xứ Anh và đặt cho nó một tên mới, giống Franc chiếm xứ Gaule và xứ này mang tên của họ [France tức Pháp: xứ của người Franc]. Sau đó, các giống Normand, Nordique lại chiếm Pháp, Anh, đảo Sicile. Giống Lombard râu dài và giống Nordique vô Ý, hợp chủng với nhau làm cho Milan và Florence thêm sinh khí nhờ đó mà có thời kì Phục hưng ở Ý. Giống Varange, giống Nordique chiếm Nga và thống trị Nga cho tới năm 1917. Giống Anh và giống Nordique khai thác châu Mĩ và châu Úc, chiếm Ấn Độ, và dựng đồn canh ở khắp các hải cảng lớn của châu Á.

Grant than thở rằng ngày nay giống người phương Bắc đó đương mất ưu thế. Ở Pháp, nó đã hỏng chân từ năm 1789, như Camille Desmoullins tuyên bố trong các quán cà phê, cuộc Cách mạng 1789 là cuộc nổi loạn của giống thổ dân Gaulois (tức người Alpin) chống lại giống Franc Teuton (gốc Đức) đã thống trị họ dưới trào Clovis và Charlemagne. Thập tự chiến, chiến tranh Ba mươi năm, các chiến tranh của Napoléon và thế chiến thứ nhất đã làm cho giống Nordique kiệt quệ, từ nay nó suy nhược quá rồi, không chống lại nổi sinh suất cao hơn của các dân tộc Alpin và Địa Trung Hải ở Âu cũng như ở Mĩ. Theo lời dự đoán của Grant thì vào khoảng năm 2000, giống Nordique đã mất ưu thế rồi, và sự suy đồi của họ sẽ làm cho văn minh phương Tây tiêu diệt trong một cảnh dã man mới, xuất hiện khắp nơi, từ trong cũng như từ ngoài. Nhưng ông sáng suốt nhận rằng “giống Địa Trung Hải” mặc dầu sinh lực kém giống Nordique (phương Bắc) và giống Alpin, lại hơn về phương diện trí tuệ và nghệ thuật, nhờ giống đó nên mới có thời cổ đại ở Hi Lạp và La Mã, tuy một phần lớn cũng do họ hợp chủng với giống phương Bắc.

Ai cũng nhận thấy được một số nhược điểm của thuyết chủng tộc. Một học giả Trung Hoa sẽ nhắc nhở chúng ta rằng dân tộc ông đã tạo được nền văn minh lâu bền nhất trong lịch sử - các nhà chính trị, nhà phát minh, nghệ sĩ, thi sĩ, khoa học gia, triết gia, thánh hiền, từ 2000 năm trước Tây lịch tới nay. Một học giả Mễ Tây Cơ sẽ chỉ cho ta những công trình kiến trúc uy nghi của người Maya, người Aztèque và người Inca ở Mĩ châu từ thời Christophe Colomb chưa đặt chân lên xứ họ. Một học giả Ấn Độ tuy nhận rằng giống người Aryen đã xâm nhập Bắc Ấn khoảng mười sáu thế kỉ trước Tây lịch, nhưng sẽ nhắc chúng ta rằng dân tộc Dravidien da đen ở Nam Ấn đã sản xuất được nhiều đại kiến trúc sư và nhiều thi hào, những đền ở Madras, Madoura và Trichinopoli là những kiến trúc đẹp nhất thế giới. Tháp điện Angkor Vat của người Khmer lại còn làm cho ta kinh dị hơn nữa. Lịch sử không biết tới màu da, và một nền văn minh có thể phát triển ở bất cứ nơi nào miễn là có đủ hoàn cảnh thuận lợi.

Dù chỉ giới hạn thuyết chủng tộc về các giống người da trắng thôi thì vẫn còn nhiều điểm khó giải thích: Giống Sémite sẽ nhắc chúng ta những nền văn minh của Babylone, Assyrie, Syrie, Palestine, Phénicie, Carthage và Hồi giáo. Người Do Thái đã tặng châu Âu Thánh kinh và Ki Tô giáo, tặng Mahomet một phần quan trọng của kinh Coran[7]. Còn người Hồi giáo thì có thể kê một loạt vua chúa, nghệ sĩ, thi sĩ, nhà bác học, triết gia đã chinh phục và tô điểm một phần thế giới da trắng từ Bagdad tới Cordoue, trong khi Tây Âu (vào khoảng từ 565 tới 1095) còn đang mò mẫm giữa thời đại Tối tăm.

Văn minh cổ Ai Cập, Hi Lạp và La Mã hiển nhiên là sản phẩm của hoàn cảnh địa lí thuận lợi và của sự phát triển kinh tế, chính trị, hơn là của thể chất một chủng tộc, và trong các nền văn minh đó, người ta thấy nhiều nguồn gốc phương Đông. Nghệ thuật và Văn chương Hi Lạp đã vay mượn của Tiểu Á, Crète, Phénicie và Ai Cập. ở thiên niên kỉ thứ II trước Tây lịch, nền văn minh Hi Lạp gọi là “văn minh ở Mycènes”[8] phát sinh một phần từ nền văn minh ở Crète, mà nguồn gốc nền văn minh này chắc là từ Tiểu Á. Khi giống Dorien “ở phương Bắc” vượt qua miền Balkan vào khoảng 1.100 trước Tây lịch, họ tàn phá gần hết nền văn minh Hi Lạp cổ sơ đó, và mãi nhiều thế kỉ sau, nền văn minh Hi Lạp thời hữu sử mới xuất hiện với Lycurguen ở Sparte, Thalès ở Milet, Héraclite ở Ephèse, Sapppho ở Lesbos và Sa lon ở Athènes. Từ thế kỉ thứ VI trước Tây lịch, người Hi Lạp truyền bá văn hóa của họ theo bờ Địa Trung hải ở Durazzo, Tarente, Crotone, Reggio de Calabre, Syracuse, Naples, Nice, Monaco, Marseille, Malaga. Nền văn minh La Mã phát sinh từ các thị trấn thuộc Hi Lạp ở Nam Ý, và cũng từ nền văn hóa Étrusque mà nguồn gốc có lẽ từ châu Á, rồi nền văn minh Tây Âu lại phát sinh từ nền văn minh La Mã, và sau cùng nền văn minh Bắc, Nam Mĩ phát sinh từ nền văn minh Tây Âu. Từ thế kỉ thứ III, các giống Celte, Teuton hoặc Á tàn phá Ý và các nền văn minh cổ điển. Người ta có thể nói rằng miền Nam tạo ra văn minh, miền Bắc thắng và tiêu diệt các nền văn minh ấy, rồi vay mượn của chúng để truyền bá chúng. Đại cương lịch sử là vậy.

Người ta đã thử đo tỉ lệ của bộ óc với mặt hoặc sức nặng, để giải thích sự liên hệ, giữa văn minh và chủng tộc, nhưng cũng chẳng làm sáng tỏ thêm vấn đề. Sở dĩ người da đen châu Phi không tạo nên được nền văn minh lớn nào, có lẽ là vì những hoàn cảnh và địa lí bất lợi: Thử hỏi có “giống” da trắng nào ở hoàn cảnh như vậy mà làm hơn họ được không? Và ta nên chú ý đến điều này là trong trăm năm gần đây, mặc dầu gặp mọi trở ngại xã hội, nhiều người da đen ở Huê Kì đã thành công rực rỡ trong nghề nghiệp, trong nghệ thuật và văn chương.

Sự thực trong lịch sử, nòi giống giữ vai trò khai đoan chứ không kiến tạo nên văn minh. Nhiều giống người tới cùng một miền vào những thời đại khác nhau, hòa hợp huyết thống, truyền thống, tục lệ của nhau - hoặc hòa hợp với thổ dân - cũng như hai nguồn di thể (tinh chủng) tiếp xúc với nhau mà sinh ra cái thai. Như vậy sau mấy thế kỉ, sự pha trộn nòi giống ấy sản xuất được một giống mới, có thể một dân tộc mới nữa, như người La Mã, Celte Angle, Saxon, Jute, Danois, Normand đã hỗn hợp với nhau mà sinh nòi giống Anh. Khi một giống mới đã thành hình thì những biểu hiện văn hóa của họ không giống một dân tộc nào khác và tạo nên một nền văn minh mới - mới về nét mặt, tính tình, ngôn ngữ, văn chương, luân lí, nghệ thuật. Không phải nòi giống tạo nên văn minh, mà chính văn minh tạo nên con người: Những hoàn cảnh địa lí, kinh tế, chính trị, tạo nên một nền văn hóa và nền văn hóa lại tạo nên một kiểu người. Người Anh tạo nên văn minh Anh ít hơn văn minh của họ ra ngoài quê hương họ, chẳng hạn khi họ ở Tombouetou[9] mà cũng bận lễ phục để ăn bữa tối, không phải là họ tái tạo văn minh của họ ở nơi ấy đâu, mà chỉ chứng tỏ rằng, ngay cả ở nơi ấy, văn minh của họ vẫn chế ngự họ. Lần lần những dị biệt về truyền thống và nòi giống phải chịu thua ảnh hưởng của hoàn cảnh. Sống vài thế hệ ở miền nhiệt đới rồi, những người gốc gác ở phương Bắc theo tính tình người phương Nam, và những đứa cháu hai đời của những người đã rời miền Nam nhàn nhã [để lên phương Bắc], lại theo cái nhịp sống, suy nghĩ mau lẹ hơn mà họ thấy ở phương Bắc.

Theo quan điểm ấy thì nền văn minh Huê Kì hiện còn ở giai đoạn hợp chủng. Từ 1700 đến 1848, những người da trắng sống ở phía bắc miền Florida hầu hết là người Anglo-saxon, và văn học của họ như một bông hoa của nước Anh cổ trồng trên đất nước Anh mới (New England)[10]. Từ năm 1848, Huê Kì mở cửa tiếp đón mọi người da trắng bất kì gốc gác ở đâu, và một cuộc hợp chủng mới lại bắt đầu, tới nay vẫn chưa hết, có lẽ vài thế kỉ nữa mới hết. Khi nào sự hợp chủng đó tạo nên một giống người thuần nhất, có thể rằng Huê Kì sẽ có ngôn ngữ riêng (khác hẳn tiếng Anh, cũng như hiện nay tiếng Y Pha Nho khác tiếng Ý) văn chương riêng và những nghệ thuật đặc biệt, ngay bây giờ, cũng đã thấy có những biến chuyển về phía đó, hoặc rõ ràng hoặc lờ mờ rồi.

Những hiềm kị về chủng tộc một phần dựa trên nguồn gốc nhân chủng, nhưng cũng có nguyên nhân khác có phần quan trọng hơn: Sự dị biệt về văn hóa đã thâu nhận, tức ngôn ngữ, y phục, thói quen, luân lí, tôn giáo. Không có cách nào diệt trừ những hiềm kị đó được, ngoài cách quảng bá một nền giáo dục bao dung. Kiến thức về lịch sử có thể dạy cho chúng ta rằng văn minh là một công trình hợp tác mà hầu hết các dân tộc đều đã góp sức, nó là di sản và món nợ chung của chúng ta, con người văn minh là con người biết coi bất kì một người đàn ông, đàn bà nào, dù tầm thường tới đâu, cũng là những đại diện của một trong những tập thể đã góp sức sáng tạo để cho nhân loại được được như ngày nay.

Chú thích:

[1] Nguyên văn là paleface (mặt lợt lạt), danh từ người da đỏ châu Mĩ dùng để trỏ người da trắng.

[2] Theo chú thích trong nguyên tác thì đoạn này trích trong tác phẩm Inequality of Human Races của Gobineau, nên tôi ghi thêm hai dấu ngoặc kép, một ở đầu và một ở cuối đoạn. (Goldfish).

[3] Đại khái giống Aryen là toàn thể giống da trắng, còn giống Teuton là giống Nhật Nhĩ Mãn tức giống Đức, như vậy ông ta muốn bảo rằng giống Đức cao quí hơn các giống Anh, Pháp, Ý, Hy Lạp v.v…

[4] Thi hào bậc nhất của Ý (1265-1321) tác giả tập thơ bất hủ pine comédie.

[5] Anglo saxon trỏ những dân tộc Nhật Nhĩ Mãn (Angle, Jute, Saxon) qua chiếm nước Anh ở thế kỉ thứ V.

[6] Một miền ở Hi Lạp mà thị trấn lớn nhất là Athènes.

[7] Vì Mahomet phỏng theo nhiều đoạn trong Thánh kinh của Do Thái để soạn kinh Coran.

[8] Một thị trấn ở Hi Lạp.

[9] Một thị trấn ở châu Phi, gần bờ sông Niger, khí hậu rất nóng.

[10] Danh từ này trỏ tất cả những thuộc địa cũ người Anh dựng nên ở thế kỉ XVII, hiện nay là các tiểu bang New Hampshire, Massachusetts, Rhode island, Connecticut, Vermont và Maine của Huê Kì trên bờ Đại Tây Dương.