← Quay lại trang sách

CHƯƠNG VII TÔN GIÁO VÀ LỊCH SỬ

Dù có óc hoài nghi đi nữa thì sử gia cũng phải tập kính ngưỡng tôn giáo, vì dưới gầm trời nào, ở thời đại nào, sử gia cũng thấy nó làm tròn nhiệm vụ của nó, và bề ngoài nó có vẻ như cần thiết cho nhân loại. Nó đem lại cho những người khốn khổ, số phận hẩm hiu và người già một niềm an ủi siêu nhiên mà hằng triệu người thích hơn bất kì sự cứu trợ tự nhiên vào. Nó giúp đỡ cha mẹ và các nhà giáo dục dạy dỗ thanh niên vào khuôn vào phép. Nó làm cho những cuộc đời hèn mọn nhất có một ý nghĩa, một phẩm cách, nó làm cho những giao ước của loài người có tính cách thiêng liêng như giao ước với Thượng Đế, nhờ vậy mà xã hội được ổn định. Napoléon bảo chính tôn giáo đã ngăn kẻ nghèo giết kẻ giàu, vì do sự bất bình đẳng giữa loài người mà đa số chúng ta phải nghèo túng, thất bại, và chỉ có mỗi một cách để khỏi tuyệt vọng là nuôi một niềm hi vọng siêu nhiên; mất niềm hi vọng này thì sự tranh đấu giữa các giai cấp sẽ thành chiến tranh. Thiên đường và không tưởng[1] như hai cái gầu trong một cái giếng: cứ cái này lên thì thì cái kia xuống, khi tôn giáo mất đất thì cộng sản lấn đất.

Mới xét thì ta thấy cơ hồ tôn giáo không có chút liên quan gì với luân lí. Có vẻ như (chúng tôi nói vậy vì đây chỉ là giả thuyết, nếu chúng tôi không muốn dẫn lời của Pétrone, mà chính Pétrone lại dẫn lời của Lucrèce)[2], có vẻ như “sự sợ hãi đã tạo nên các thần linh”: sợ những sức mạnh ẩn náu trong lòng đất, dòng sông, dưới biển, trên cây, trong ngọn gió và trên trời. Vậy tôn giáo là để thờ phụng các sức mạnh đó, cúng tế, cầu nguyện, đọc phù chú cho chúng đừng làm hại mình. Khi các tu sĩ dùng những kinh hãi cùng lễ nghi đó để phù trợ luân lí và luật pháp thì lúc đó tôn giáo mới thành một tổ chức giúp đỡ đắc lực cho quốc gia nhưng cũng kình địch với quốc gia. Nó tuyên bố với các dân tộc rằng luân lí và luật pháp trong xứ đều do các thần linh khải thị cho. Theo tôn giáo thì thần Thot đã đọc cho Ménès chép những luật của Ai Cập, thần Shamash đã gợi cho Hammourabi thảo luật của Babylone, Yahvé (Thượng đế của Do Thái) đã đọc cho Moise Mười giới luật (Thập giới) và sáu trăm mười ba qui tắc để dân tộc Israel theo, và Nữ thần Egérie đã truyền cho Numa Pompilius luật của La Mã. Các mục sư Ki Tô giáo hay ngoại đạo đều bảo rằng các vua chúa trên cõi trần đều thụ mệnh của các thần linh và được thần linh che chở. Được nâng đỡ như vậy, hầu hết các Chính quyền đều rất mang ơn và chia đất cùng lợi tức với giai cấp tu sĩ.

Một số người không theo tôn giáo không nhận rằng tôn giáo là nguồn gốc của luân lí vì cả trong những thế kỉ tôn giáo thống trị, con người cũng vẫn vô luân. Chắc chắn thời Trung cổ [thời tôn giáo mạnh nhất ở châu Âu] cũng có cái tệ dâm đãng, say rượu, thô tục, tham lam, bất lương, cướp bóc, tàn bạo; nhưng rất có thể rằng sự thác loạn về tinh thần, hậu quả của năm thế kỉ bị các rợ xâm lăng, năm thế kỉ chiến tranh, tàn phá, tan rã về chính trị, còn tai hại hơn nữa nếu không được nền đạo đức Ki Tô giáo hãm bớt lại, được các mục sư đăng đàn khuyên răn, được các vị thánh nêu gương và một nghi lễ làm dịu lòng và đoàn kết con người. Giáo hội La Mã đã có công diệt chế độ nô lệ, những thù nghịch giữa các quí tộc, những xung đột giữa các quốc gia, kéo dài các thời hưu chiến và thái bình, dùng lối phán xử của tòa án để thay lối phán xét bằng cách quyết đấu một chọi một, hoặc cách thử tội như đốt lửa, đổ chì[3]. Sau cùng nó đã mở rộng khu vực bác ái và sự tổ chức các cơ quan từ thiện.

Tuy giúp được việc cho Quốc gia, nhưng Giáo hội lại tự cho là mình ở trên hết thảy các Quốc gia vì luân lí cao cả hơn quyền hành. Nó dạy rằng ái quốc mà không trung thành với các giá trị siêu việt [tức các giá trị luân lí do thần thánh chỉ bảo] thì có thể thành lợi khí của lòng tham lam vô độ hoặc của tội ác. Nó ban bố một luật luân lí duy nhất, bắt tất cả các chính quyền kình địch trong giáo hội Ki Tô phải theo. Lấy lẽ rằng nó có nguồn gốc thần thánh, nó đòi một thứ quyền tối thượng về tinh thần, tự coi mình là một thứ tòa án quốc tế và tất cả các vua chúa đều phải chịu trách nhiệm về tinh thần trước tòa án đó. Vua Pháp Henri IV chịu nhận quyền đó của Giáo hội khi ông cúi đầu phục tòng Giáo hoàng Grégoire VII năm 1077; một thế kỉ sau, Giáo hoàng Innocent III (mất năm 1216) đưa uy danh và quyền vị của Giáo hoàng tới một mức rất cao khiến người ta tưởng rằng cái lí tưởng thành lập một Siêu Quốc gia tinh thần của Grégoire đệ nhất (?) đã thực hiện được.

Tinh thần quốc gia, tinh thần hoài nghi và sự nhu nhược của con người làm cho cái mộng vĩ đại đó sụp đổ. Giáo hội gồm những phàm nhân và nhiều kẻ đầy thiên kiến vụ lợi và bạo ngược. Nước Pháp mạnh lên, giàu lên, dùng Giáo hội làm một lợi khí chính trị; các vua sau cùng đủ mạnh để buộc một Giáo hoàng phải giải tán Giòng Tên trước đã tận tâm ủng hộ Giáo hoàng. Giáo hội lại tự hạ tới mức lừa gạt tín đồ, chẳng hạn bằng những truyện hoang đường mà họ gọi là truyện kính tín, bằng những thánh tích ngụy tạo, và những phép màu khả nghi; trong mấy thế kỉ, nó lợi dụng một truyền thuyết gọi là “tặng địa của Constantin”[4], theo thuyết đó thì Constantin đã tặng cho Sylvestre đệ nhất (làm Giáo hoàng từ 314 đến 335) tất cả Tây Âu, lại lợi dụng những Ngụy Giáo lệnh (khoảng 842) tức những giấy tờ giả mạo là có từ thời thượng cổ để chứng minh quyền hành tuyệt đối của các Giáo hoàng. Càng ngày Giáo hội càng dùng quyền lợi để truyền bá chính giáo chứ không phải luân lí, và Pháp đình tôn giáo [vì quá lạm bạo hành] suýt làm cho Ki Tô giáo mất thanh thế: Giáo hội một mặt khuyến cáo hòa bình, một mặt gây chiến tranh tôn giáo tại nước Pháp trong thế kỉ XVI, và chiến tranh Ba mươi năm[5] tại Đức trong thế kỉ XVII. Nó chỉ góp công một cách khiêm tốn vào sự tiến bộ đáng kể nhất về luân lí cận đại, tức vào sự phế trừ chế độ nô lệ. Nó nhường cho các triết gia cầm đầu những phong trào nhân đạo làm giảm bớt những đau khổ của thời đại chúng ta.

Lịch sử nhận rằng Giáo hội có lí khi nó bảo đại đa số nhân loại muốn một tôn giáo có nhiều phép màu, nhiều bí mật, nhiều huyền thoại. Đã có vài sự thay đổi nho nhỏ về phương diện nghi lễ, tăng phục và quyền của giáo chủ; nhưng Giáo hội không dám sửa đổi những thuyết vô lí, vì như vậy thì hằng triệu người tin những truyện huyền hoặc khích lệ, an ủi sẽ phật ý và thất vọng chua chát. Không thể hòa giải tôn giáo và triết lí được, trừ khi các triết gia thú rằng không đưa ra được cái gì để thay thế nhiệm vụ luân lí của Giáo hội, và Giáo hội chịu nhận sự tự do tín ngưỡng và tư tưởng.

Lịch sử có xác nhận lòng tin ở Thượng Đế không? Nếu chúng ta cho Thượng Đế không phải là sức sáng tạo của Thiên nhiên, mà là một đấng tối cao, toàn trí, toàn nhân, thì chúng ta buộc lòng phải đáp: “Không”. Như các ngành khác của môn sinh vật học, lịch sử thực ra là một sự đào thải tự nhiên giữa các cá nhân, các tập thể tài giỏi nhất trong một cuộc cạnh tranh mà cái thiện chẳng được ưu thế gì cả, cái ác thì rất nhiều, và tiêu chuẩn tối hậu là khả năng tồn tại. Nếu chúng ta đem các thiên tai do “Thượng Đế” gây nên để trừng trị loài người, như động đất, dông tố, gió lốc, nước dâng, bệnh dịch khiến cho trái đất của chúng ta cứ lâu lâu lại bị tiêu điều, nếu chúng ta đem những cái đó cộng vào những tội lỗi, chiến tranh và các tàn bạo khác của loài người, thì chúng ta tự nhiên nghĩ tới một số phận tàn nhẫn hoặc mù quáng, hoặc vô tư, và lâu lâu mới hiện ra những cảnh có vẻ như ngẫu nhiên, mà óc chủ quan của ta cho là có trật tự, đẹp đẽ, rực rỡ, hoặc hoàn mĩ nữa. Nếu lịch sử xác nhận một thứ thần học nào, thì thần học đó chắc phải là một nhị nguyên luận, tựa như nhị nguyên luận của Bái hỏa giáo[6] hoặc của giáo phái do Manès sáng lập [cũng gọi là Thiện ác nhị nguyên giáo][7]: một ông Thiện một ông Ác tranh nhau ngự trị vũ trụ và tâm hồn con người. Những tôn giáo đó và Ki Tô giáo (thực ra cũng có tính cách thiện ác nhị nguyên giáo) xác nhận với tín đồ rằng rốt cuộc cái thiện sẽ thắng; lịch sử không bảo đảm cho giả thuyết đó. Cả thiên nhiên lẫn lịch sử đều không chấp nhận quan niệm của chúng ta về thiện và ác; mà cho cái gì tồn tại được là “thiện”, cái gì bị đào thải là “ác”; vũ trụ không thiên vị với Chúa Ki Tô, mà ghét Gengis Khan (Thành Cát Tư Hãn).

Càng nhận thấy địa vị cực nhỏ của mình trong vũ trụ, con người càng mất thêm lí do để tin tưởng. Tại các nước theo Ki Tô giáo, có thể nói rằng sự suy vi đó bắt đầu từ thời Copernic[8] (1543). Sự diễn biến đó xảy ra chậm chạp, nhưng ngay từ năm 1611, John Donne đã rầu rĩ nhận thấy rằng trái đất chỉ là một “ngoại ô” ở giữa vũ trụ, mà “tân triết lí hoài nghi tất cả”; còn Francis Bacon mặc dầu vẫn ngả mũ chào các vị chủ giáo mà lại tuyên bố rằng khoa học là tôn giáo của con người tiến bộ. Sau cùng thế hệ chúng ta có thể là thế hệ “Thượng Đế đã chết”, Thượng Đế hiểu theo nghĩa vị thần ở ngoài thế giới.

Một hậu quả lớn lao như vậy tất phải có nhiều nguyên nhân ngoài sự tiến bộ của kiến thức về sử và khoa học. Trước hết, phải kể phong trào Cải cách tôn giáo mới đầu đã đưa ra quy tắc này là con người có quyền tự do xác tín[9]. Rồi tới vô số giáo phái phát sinh từ đạo Thệ phản (Tin Lành) và các thần học mâu thuẫn nhau, mà giáo phái nào cũng căn cứ vào cả Thánh thư lẫn lí trí. Rồi tới sự phê bình Thánh kinh, cho rằng bộ sách thiêng liêng, kì diệu đó thực ra là một tác phẩm không hoàn hảo của những người có thể lầm lẫn. Rồi tới phong trào tự nhiên thần giáo ở Anh, cho tôn giáo chỉ là một sự tín ngưỡng mơ hồ một vị Thượng Đế không khác Thiên nhiên là bao[10]. Rồi người ta lần lần phát giác được các tôn giáo khác, mà các thần thoại nhiều khi có trước Ki Tô giáo nữa, và tai hại thay, rất giống các điều căn bản của Ki Tô giáo mà người ta bảo là có tính cách lịch sử. Rồi đạo Thệ phản chỉ trích các phép màu bên Thiên Chúa giáo, còn Tự nhiên thần giáo thì chỉ trích các phép màu trong Thánh kinh, và mọi người đều chỉ trích những gian lận, những vụ giam bắt lạm quyền, tàn sát trong lịch sử Giáo hội. Canh nông trước kia khiến cho người ta tin có Thượng Đế vì thấy cái bí mật của sự sinh trưởng, thấy sự sống cứ mỗi năm lại hồi xuân, bây giờ kĩ nghệ ngày ngày lải nhải đọc lời thần chú của máy móc, gợi cho ta thấy rằng thế giới chỉ là một bộ máy (chứ chẳng do Thượng Đế nào điều khiển cả). Chúng ta nên kể thêm những tiến bộ táo bạo của khoa học hoài nghi (Bayle), của triết thuyết phiếm thần (Spinoza), sự tấn công đại quy mô vào Ki Tô giáo ở Pháp, trong “thế kỉ ánh sáng”[11] và cuộc nổi loạn của Paris chống Giáo hội trong cuộc Cách mạng Pháp. Ngày nay lại thêm những cuộc đại tàn sát thường dân trong các chiến tranh hiện đại. Sau cùng chúng ta phải kể những thắng lợi lớn lao của kĩ thuật, làm cho con người vừa có quyền năng tuyệt vời lại vừa có khả năng tự hủy, thành thử những giới luật từ trên trời ban xuống phải xét lại hết.

Xét theo một phương diện nào đó thì Ki Tô giáo đã tự đưa roi cho người ta quất mình vì nó đã gây cho nhiều người một ý thức đạo đức không thể chấp nhận được một dạng Thượng Đế thù vặt trong thần giáo truyền thống nữa. Ý niệm về địa ngục mất hẳn trong tư tưởng các người có học thức, ngay cả trong những bài thuyết giáo nữa. Các người theo phái Trưởng giáo (Presbytérianisme) thấy ngượng vì Tín điều Westminster buộc họ phải tin có một Thượng Đế đã sinh ra hằng tỉ con người mặc dầu Ngài biết rằng họ có đức hay có tội thì cũng phải vĩnh viễn đày địa ngục. Đi thăm tiểu giáo đường Sixtine, các tín đồ Ki Tô giáo có học thức thấy chướng mắt khi nhìn một bức Michel Ange vẽ chúa Ki Tô đày hỗn độn một đám người có tội xuống địa ngục để họ vĩnh viễn bị thiêu đốt, họ nghĩ bụng phải đó là “em bé Ki Tô dễ thương dịu dàng” mà hồi nhỏ họ muốn noi gương không. Thời cổ Hi Lạp, những tấn bộ của luân lí đã làm lung lay lòng tin các vị thần tàn bạo và dâm dật trên núi Olympe (Platon bảo: “Một phần nhân loại không tin có các thần linh nữa”), thì ngày nay cũng vậy, những tấn bộ của đạo đức Ki Tô giáo chầm chậm gậm nhấm thần học của Giáo hội. Chúa Ki Tô đã truất ngôi Jéhovah.

Hậu quả đáng chú ý nhất và nguy hại [cho tôn giáo] nhất của cuộc cách mạng kĩ nghệ là nó đã thay thế những cơ quan Ki Tô giáo bằng những cơ quan thế tục. Một trong những nhận xét căn bản làm óc ta thắc mắc và buộc ta phải suy nghĩ lại lối sống là nhận xét này: Các Quốc gia phải ráng đừng nhờ thần học biện chính cho mình nữa. Xưa kia, luật pháp là những sắc lệnh của một quốc vương do Thượng Đế trao quyền; bây giờ người ta nhận rằng luật pháp chỉ là những lệnh mập mờ, hỗn độn do những người có thể lầm lẫn soạn thảo ra. Trước kia giáo dục ở trong tay các mục sư được ơn thiên khải, ngày nay giao phó cho những người thường, đàn ông và đàn bà, không bận áo nhà tu, không có cái hào quang của nhà thần học, và những nhà giáo đó chỉ trông vào lí trí và sự thuyết phục để khai hóa những thiếu niên nổi loạn, bọn này chỉ sợ hiến binh và rất có thể chẳng bao giờ tập dùng tới lí trí. Các cơ quan giáo dục trước kia liên kết với Giáo hội, bây giờ đã thuộc về phạm vi hành động của các nhà kinh doanh và các nhà bác học. Xưa kia người ta tiêm cho thanh niên một giáo lí và một hệ thống luân lí siêu nhiên thì bây giờ người ta tuyên truyền cho tinh thần ái quốc, cho chế độ tư bản hay cộng sản. Ngày nghỉ không phải là “ngày lễ” nữa mà là ngày “khỏi phải làm việc mà vẫn ăn lương”. Rạp hát nào cũng đông nghẹt, và ngay ngày chủ nhật nữa, giáo đường cũng vắng tanh. Trong các gia đình anglosaxon, tôn giáo là một tập tục xã hội và một thứ mặt nạ tiện lợi; trong các gia đình công giáo ở Mĩ, nó được tôn trọng, nhưng trong giới trung và đại tư sản Pháp và Ý, tôn giáo là “một đặc tính phụ của nữ tính”[12]. Có cả ngàn dấu hiệu chứng tỏ rằng Ki Tô giáo suy tàn y hệt tôn giáo Hi Lạp sau khi xuất hiện bọn ngụy biện trong “thế kỉ ánh sáng” của Hi Lạp.

Thiên chúa giáo sở dĩ còn tồn tại là vì nó gợi óc tưởng tượng, niềm hi vọng và giác quan của con người, nhờ thần thoại của nó an ủi kẻ nghèo, làm cho đời sống của họ đẹp lên, và cũng vì sức sinh sản mau chóng có tính cách bắt buộc (?) của tín đồ lần lần chiếm lại được khu vực bị mất trong cuộc Cải cách tôn giáo. Thiên chúa giáo đã bỏ cái ý dụ dỗ giới trí thức và càng ngày càng mất ảnh hưởng do sự tiếp xúc với giáo dục và văn chương thế tục, trái lại nó thu phục được một số tâm hồn chán ngán những thay đổi bất thường của lí trí, và những tâm hồn hi vọng rằng Giáo hội sẽ ngăn được sự hỗn loạn và làn sóng cộng sản.

Nếu một thế chiến thứ ba tàn phá nền văn minh phương tây, tới nỗi các thị trấn lớn tiêu tan hết, mọi người đều khốn cùng, khoa học cũng không còn, thì rất có thể, như năm 476, Giáo hội sẽ là niềm hi vọng duy nhất, cơ quan chỉ đạo duy nhất của những kẻ sống sót sau đại tai biến đó.

Một trong những bài học của lịch sử là tôn giáo có nhiều đời sống và vẫn thường tái sinh. Đã bao lần rồi, Thượng đế và tôn giáo đã chết để rồi từ đám tro tàn lại sống lại! Akhenaton[13] dùng tất cả quyền hành của một Pharaon (vua Ai Cập thời cổ) để diệt sự thờ phụng thần Amon; ông ta chết năm trước thì năm sau sự thờ phụng đó được tái lập. Thời Thích Ca còn trẻ, thuyết vô thần hoành hành ở Ấn Độ, và chính ngài đã thành lập một “tôn giáo vô thần”; khi ngài tịch, Phật giáo tạo ra một thần học phức tạp, gồm đủ thần, thánh và một địa ngục. Triết học, khoa học và sự giáo dục làm cho đền miếu ở Hi Lạp mất hết thần, nhưng sự trống rỗng đó thu hút cả tá tôn giáo phương Đông có rất nhiều thần thoại về sự phục sinh. Năm 1793, Hébert và Chaumette hiểu lầm Voltaire[14] mà dựng ở Paris một đền thờ nữ thần Lí trí; một năm sau Robespierre sợ cảnh hỗn loạn và chịu ảnh hưởng của Rousseau, lập đền thờ Đấng Tối cao; năm 1801, Napoléon, giỏi về sử, kí một điều ước Hòa thân với Giáo hoàng Pie VII, thế là trả lại Thiên Chúa giáo cho nước Pháp. Thế kỉ XVIII của Anh là thế kỉ vô tín ngưỡng[15], nhưng qua triều đại Nữ hoàng Victoria[16] thì Quốc gia và Giáo hội mặc nhiên thỏa hiệp với nhau: Quốc gia chịu duy trì, chu cấp cho Giáo hội Anh[17] và các giới trí thức chịu giấu thái độ hoài nghi của họ; bù lại Giáo hội phải phục tòng Quốc gia và bọn tăng đồ Anh phải kính cẩn phục vụ giới quí tộc trong giáo khu. Ở Hoa Kì, chủ trương duy lí của các vị lập quốc, qua thế kỉ XIX nhường bước cho phong trào phục sinh tôn giáo.

Suốt dòng lịch sử, người ta nhận thấy phong trào thanh giáo nghiêm khắc và phong trào tà ngụy, vô tôn giáo, tác động lẫn nhau, thay phiên nhau, nghĩa là cứ sau một thời ức chế giác quan và thị dục thì lại tới một thời phóng dục. Xét chung thì tôn giáo và chủ trương nghiêm khắc thắng vào những thời luật pháp bất lực, và luân lí phải lãnh nhiệm vụ giữ trật tự xã hội; còn chủ nghĩa hoài nghi và phong trào tà ngụy xét chung thì phát đạt khi luật pháp và chính quyền mạnh lên, Quốc gia có thể để cho Giáo hội, gia đình, luân lí suy vi mà không hại gì lắm cho sự bền vững của Quốc gia. Ở thời đại chúng ta, sức mạnh của Quốc gia hợp với các sức mạnh kể trên [khoa học, kĩ thuật, tinh thần tự do hoài nghi], gây nên sự suy đồi về tín ngưỡng và luân lí, mà sự tà ngụy lại tự nhiên phát triển. Có thể rằng sự phóng túng của chúng ta sẽ gây nên một phản ứng mới; có thể rằng sự hỗn loạn về luân lí sẽ làm cho tôn giáo phục hồi; có thể rằng, như ở Pháp sau cuộc đại bại năm 1870[18]. Người ta sẽ thấy những người theo chủ nghĩa vô thần, gởi con vô học các trường Thiên Chúa giáo để chúng được kỉ luật của tín ngưỡng rèn cho. Chúng ta hãy nghe lời kêu gọi năm 1866 của triết gia chủ trương bất khả tri Renan:

“Chúng ta nên vui mừng về cái tự do mà với tư cách con của Thượng Đế, chúng ta được hưởng, nhưng phải coi chừng, đừng a tòng, làm cho đạo đức suy giảm đi mà sẽ nguy hại cho xã hội nếu Ki Tô giáo suy tàn. Không có tôn giáo đó thì chúng ta sẽ ra sao?… Nếu chủ nghĩa duy lí muốn ngự trị thế giới mà chẳng cần biết những nhu cầu tôn giáo của linh hồn, thì kinh nghiệm cuộc Cách mạng Pháp còn đó để chỉ cho ta thấy hậu quả của sự nhầm lẫn đó”.

Lịch sử có xác nhận kết luận của Renan không, tôn giáo có cần thiết cho luân lí không, vì một nền đạo đức tự nhiên yếu quá không đủ thắng những bản năng tiềm tàng dưới cái lớp sơn văn minh và lâu lâu lại biểu lộ trong những mộng tưởng, tội lỗi và chiến tranh của chúng ta. Joseph de Maistre trả lời câu đó như sau: “Tôi không biết lòng một tên vô lại ra sao; nhưng tôi biết lòng một chính nhân: Thật tởm!”. Cho tới ngày nay, trong lịch sử chưa có một trường hợp quan trọng nào mà một xã hội không cần tôn giáo cũng duy trì được đạo đức[19]. Pháp, Hoa Kì và vài xứ khác đã làm cho chính quyền tách ra, độc lập đối với các Giáo hội, nhưng vẫn nhờ tôn giáo giúp đỡ để duy trì trật tự xã hội. Chỉ có vài nước cộng sản là không những đoạn tuyệt với tôn giáo mà còn không thèm nhờ tôn giáo giúp đỡ nữa; mà có thể rằng kinh nghiệm đó hiện nay có vẻ thành công ở Nga là vì họ đã tạm thời dùng chủ nghĩa cộng sản làm tôn giáo (kẻ hoài nghi bảo là thuốc phiện) của dân chúng, thành thử chủ nghĩa đó thay tôn giáo mà ban bố niềm an ủi và hi vọng cho dân chúng. Nếu chế độ cộng sản thất bại trong việc gắng sức diệt sự nghèo khổ, thì tôn giáo mới đó sẽ mất nhiệt thành và hiệu quả; lúc đó có thể rằng Quốc gia lại ước mong trở về những tín ngưỡng siêu nhiên, để được giúp sức mà bịt miệng phe đối lập. “Hễ còn cảnh khốn khổ thì còn thần linh”.

Chú thích:

[1] Tác giả muốn nói chế độ cộng sản.

[2] Pétrone là thi sĩ La tinh ở đầu kỉ nguyên tây lịch - Lucrèce cũng là thi sĩ La tinh ở thế kỉ thứ nhất trước tây lịch.

[3] Thời Trung cổ, có lẽ ở khắp thế giới, và hiện nay tại các dân tộc bán khai, có tục xử kiện đó: bên nguyên và bên bị đấu sức với nhau, ai thắng là người đó được kiện, không có tội; hoặc ai bị đốt lửa, bị đổ chì sôi vào tay mà không cháy bỏng là được kiện.

[4] Tức Constantin đại đế (274 - 3/7) hoàng đế La Mã.

[5] Cũng là chiến tranh tôn giáo từ 1618 tới 1648, cho nên gọi là Ba mươi năm.

[6] Zoroastisme: Zoroastre (sinh khoảng 660) là người cải cách tôn giáo cổ của Ba Tư.

[7] Manichéisme: Manès, cũng gọi là Manichée, sinh năm 215 ở Babylone, mất ở Ba Tư năm 276-277. Tôn giáo ông sáng lập chịu ảnh hưởng của Ki Tô giáo và tôn giáo Ba Tư.

[8] Nhà thiên văn học Ba Lan (1473-1543) là người đầu tiên chứng thực rằng trái đất không phải là trung tâm vũ trụ (như mọi người thời đó tin tưởng) mà là một hành tinh quay chung quanh mặt trời.

[9] Nghĩa là quyền chỉ tin điều gì lí trí của mình nhận là đúng.

[10] Nghĩa là gần như coi Thượng Đế chỉ là thiên nhiên.

[11] Tức thế kỉ XVIII.

[12] Nghĩa là chỉ có đàn bà mới theo tôn giáo.

[13] Akhenaton: bản tiếng Anh chép là Ikhnaton. (Goldfish).

[14] Vì Voltaire tuy tôn trọng lí trí nhưng vẫn cho rằng quan niệm Thượng Đế có ích cho loài người.

[15] Xã hội Anh thời đó dĩ nhiên vẫn có tôn giáo nhưng chính quyền và dân chúng có tinh thần hoài nghi, không mộ đạo, không trọng Giáo hội.

[16] Nữ hoàng Victoria (1819-1901) giỏi trị nước và rất nghiêm, ảnh hưởng rất lớn tới xã hội Anh ở thế kỉ XIX.

[17] Cũng thờ Chúa Ki Tô, giáo hội này (Englise anglicane), tách ra khỏi Giáo hội La Mã và thịnh nhất trong số các giáo phái ở Anh.

[18] Pháp thua Phổ.

[19] Vấn đề này thật mênh mông. Chúng tôi chỉ xin đưa ra nhận xét này: giới trí thức (kẻ sĩ) Trung Hoa, ít nhất là trước đời Lục Triều (nghĩa là trước khi ảnh hưởng của đạo Phật đã hơi mạnh), tuy tin có Thượng Đế, có thần linh nhưng không thờ Thượng Đế và thần, chỉ thờ tổ tiên, cũng không theo một tôn giáo nào cả (Khổng giáo, Lão giáo đều không phải là tôn giáo mà Mặc giáo chưa có đủ hình thức một tôn giáo thì đã suy, biến thành một triết lí thuần túy, tức phái Biệt Mặc), vậy mà vẫn có một đời sống đạo đức cao không kém một dân tộc nào; chắc chắn là hơn các quí tộc thời Trung cổ châu Âu; giới bình dân cũng vậy. Và khi Lâm Ngữ Đường thắc mắc: “Nếu không có Thượng Đế thì còn ai làm điều thiện nữa, mà thế giới sẽ điên đảo mất”, một người bạn của ông, theo Khổng giáo, đáp “Tại sao lại như vậy? Chúng ta phải sống một đời sống hợp đạo chỉ vì chúng ta là những con người hiểu đạo, thế thôi”.

(Coi chương XIII cuốn Sống đẹp của Lâm Ngữ Đường Nguyễn Hiến Lê dịch, Tao Đàn xuất bản - 1965). Nhưng cho tới ngày nay, chúng ta phải nhận lời của Durant: “Hễ còn cảnh khốn khổ thì còn thần linh” là đúng.